Trang chủ

DANH MUC


Muc luc

Giới thiệu
Tin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Google
Amazon
Yahoo
Facebook
Youtube
Skype Me™!

Liên lạc với chúng tôi

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Trẻ VN 'thừa kiến thức, thiếu kỹ năng'?

Trẻ VN 'thừa kiến thức, thiếu kỹ năng'?
• 25 tháng 8 2015
Chia sẻ
Image copyright iStock
Trong phiên bản 2015 của cuốn "Thực hành kỹ năng sống cho học sinh lớp
1", một phần nội dung gây tranh cãi đã không còn xuất hiện.
Nhà xuất bản Giáo dục, đơn vị chịu trách nhiệm in cuốn sách này, nói
đã có sự điều chỉnh đối với phần nội dung chưa phù hợp, trong lúc Bộ
Giáo dục có công văn yêu cầu "có biện pháp xử lý" đối với phần bài
tập "đi trên thảm thủy tinh", được cho là "gây ảnh hưởng không tốt",
theo trang tin VnExpress.
Mẩu chuyện 'bạn An dũng cảm đi trên thảm thủy tinh', trong đó động
viên trẻ em 'chiến thắng nỗi sợ' đã phải rút đi.
Tuy nhiên, người đứng đầu nhóm soạn thảo, Tiến sỹ Phan Quốc Việt nói
rằng đó không phải là việc loại bỏ nội dung, mà là "đổi mới để phát
triển".
Được xuất bản lần đầu năm 2013 và qua hai lần tái bản trong năm 2014,
2015, cuốn sách nhằm dạy các em về các kỹ năng sống thường gặp hàng
ngày, từ lời chào hỏi, bắt tay, cho tới thuyết trình, lắng nghe.
Cuốn sách cũng gồm các bài tập về những tình huống hiểm nguy lẫn
những tình huống mang tính phấn khích, giải trí vui vẻ, ông Việt nói.
"Kinh nghiệm quốc tế"
Chúng tôi tuân theo nguyên tắc của UNESCO, gồm "learn to know, learn
to be, learn to do, learn to live together" (tức học để biết, học đế
sống, học để hành, học để chung sống cùng nhau). Tức là phải sống,
phải làm người đã, rồi mới làm việcTiến sỹ Phan Quốc Việt, chủ biên
ban soạn thảo
"Chúng tôi tuân theo nguyên tắc của UNESCO, gồm "learn to know, learn
to be, learn to do, learn to live together" (tức học để biết, học đế
sống, học để hành, học để chung sống cùng nhau). Tức là phải sống,
phải làm người đã, rồi mới làm việc," ông Việt nói với BBC Tiếng
Việt.
Nội dung sách được xây dựng trên cơ sở thu nhập, tiếp nhận kinh
nghiệm từ nhiều nơi trên thế giới, trong đó có cả từ Mỹ, Anh, Liên Xô
cũ, Malaysia, Singapore, và cả từ kinh nghiệm cá nhân, ông Việt nói
thêm.
"Chúng tôi soạn nội dung theo ba năng lực, bảy phẩm chất cần cho con
trẻ, và cũng tuân theo một thông tư hướng dẫn của Bộ Giáo dục."
Phần "sự trải nghiệm đối mặt với khó khăn, thách thực trong cuộc
sống, trải nghiệm quản trị cảm xúc" là phần sẽ vẫn không thay đổi,
ông Việt cho biết, nhưng hình thức bài tập "thảm thủy tinh" sẽ được
thay thế bằng bài tập bơi lội.
Trong lần tái bản 2015, việc bỏ bài tập "đi trên thảm thủy tinh" sau
hai năm áp dụng được đưa ra dựa trên nhiều yếu tố, cả do sự cân nhắc
của ban soạn thảo lẫn tiếp thu các luồng ý kiến trong xã hội, nhằm
tạo sự sinh động, tránh nhàm chán, ông Việt nói.
"Một số người chê bai có lẽ là do chưa hiểu, đó là việc của đời. Cái
mới thì bao giờ cũng có người chê," ông Việt nói. "Có những người
suốt ngày lo làm hài lòng người khác, nhưng tôi không phải vậy, tôi
là người đổi mới. Và khi đổi mới là phải chấp nhận rủi ro, tôi chấp
nhận rủi ro."
"Đừng ném đá"
"Ở Việt Nam người ta thích ném đá. Đừng biến trò ném đá thành một
trò nghiện. Hãy gạn đục khơi trong chứ đừng bới lông tìm vết. Hãy đãi
cát tìm vàng chứ đừng bới bèo ra bọ," ông Việt nói thêm.
Image copyright iStock
"Đi trên thủy tinh" là bài tập được thực hiện phổ biến trên thế
giới, ông Việt nói, bản thân ông cũng từng trực tiếp thực hiện cho
người khác xem và cho thực hiện ở nhiều nơi trong suốt 10 năm qua.
"Tôi cõng một bạn khác đi trên thủy tinh, trên đầu tôi còn đội cái
chai. Nguyên tắc dạy của tôi là thầy giáo phải tạo gương, tôi vừa là
lãnh đạo vừa là thầy giáo, nên phải tạo gương ở cấp bình phương. Đó
chỉ là một bài tập bình thường."
Bấm vào link này để xem video clip "đi trên mảnh thủy tinh".
Lý do chọn đưa "đi trên thảm thủy tinh" vào giáo trình là do tính phổ
biến của tình huống liên quan trong cuộc sống.
"Mảnh thủy tinh là điều hay gặp nhất trong các bất trắc xảy ra trong
cuộc đời. Mọi người hay sợ va chạm vào mảnh thủy tinh gây chảy máu,
nên chúng tôi chọn để đưa vào giáo dục."
Tuy nhiên, trước câu hỏi về cách đặt thảm thủy tinh để các em thực
hành mang tính sắp xếp, có tính toán trước nhiều hơn thay vì những gì
có thể diễn ra trong thực tế, ông Việt nói: "Tất cả các lý thuyết đều
là chọn trường hợp điển hình, không thể đưa mọi tình huống vào trong
sách được."
Hiện ban soạn thảo đã viết xong sách cho các em từ lớp một tới lớp
chín, với tham vọng sẽ có cả sách cho sinh viên đại học, ông Việt
nói. Tuy nhiên, việc đưa sách vào các trường "còn phụ thuộc Bộ Giáo
dục, phụ thuộc cơ duyên".
"Cả thế giới này hiện đang khuyết tật về tâm hồn. Trẻ em Việt Nam
hiện nay thừa kiến thức, nhưng thiếu kỹ năng," ông Việt nói.
Chia sẻ tin này Về mục Chia sẻ

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015

Fwd: “Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển!”

---------- Forwarded message ----------
From: Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com>
Date: Tue, 18 Aug 2015 09:05:57 +0700
Subject: Fwd: "Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không
chịu phát triển!"
To: thanhtuanitac <thanhtuanitac@yahoo.com.vn>

---------- Forwarded message ----------
From: Quyen nguyen tan <tanquyen9@gmail.com>
Date: Mon, 17 Aug 2015 17:18:15 +0700
Subject: "Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển!"
To: Nguyen Ngoc chuong <nguyen.ngocchuong@rocketmail.com>
Cc: HUYNHSONTUNG VN <huynhsontung@yahoo.com>

*"Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển!"*
10/08/2015

*Infonet
<http://infonet.vn/viet-nam-la-mo-hinh-ky-la-nhat-the-gioi-nuoc-khong-chiu-phat-trien-post171047.info>*

*Hải Châu*

10-08-2015

Đó là lời "nói đùa" mà rất đau của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới được
chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan thuật lại với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong cả nước về Đà Nẵng dự hội nghị.

*Không cạnh tranh được trong ASEAN thì nói gì đến cạnh tranh với Mỹ, EU*

Tiếp tục bài nói chuyện "Cơ hội và thách thức với doanh nghiệp (DN) nhỏ và
vừa trong hội nhập quốc tế" tại hội nghị kết nối các DN nhỏ và vừa toàn
quốc do Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam tổ chức chiều 8/8 ở Đà Nẵng (Infonet
đã đưa tin
<http://infonet.vn/nguoi-lang-gieng-phuong-bac-luon-noi-vay-ma-khong-phai-vay-post171004.info>),
chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan nêu rõ, nhìn vào các FTA mà Việt
Nam đã ký kết cho thấy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta với các
đối tác chiếm tỉ lệ rất lớn và sắp tới sẽ tiếp tục tăng trưởng hơn nữa.

<https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/08/infonet_ket_noi_doanh_nghiep_anh3.jpg>

Hàng trăm doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước tham dự hội nghị kết nối do
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng ngày 8/8
(Ảnh: HC)

Tuy nhiên, nếu nhìn vào bước đường hội nhập thì có thể thấy điều rất đáng
lo là năng lực cạnh tranh của Việt Nam cho đến nay vẫn còn thua xa các nước
ASEAN 6. Đã 20 năm tham gia ASEAN nhưng Việt Nam vẫn còn nằm trong nhóm 4
nước lạc hậu hơn của ASEAN (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar).

"Do vậy, năm 2014, Thủ tướng đã đưa ra những cố gắng để cải thiện môi
trường kinh doanh một cách cơ bản cho DN, và sau đó quyết định lấy năm 2015
là "Năm Doanh nghiệp". Trên tinh thần đó, nhiều nơi cũng quyết định lấy năm
nay là năm của DN. Quốc hội, Ban Kinh tế TƯ cũng coi năm nay là năm tập
trung để cải thiện cho DN. Cải thiện môi trường kinh doanh chính là để nâng
cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam!" – Bà Phạm Chi Lan nói.

Theo bà, Thủ tướng quyết định lấy chuẩn của các nước ASEAN làm chuẩn cho
năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Năm 2014, Thủ tướng chủ trương Việt Nam
phải cải thiện các chỉ số của Ngân hàng Thế giới về môi trường kinh doanh
sao cho ngang bằng với ASEAN 6. Năm nay thì Thủ tướng đưa ra tiêu chuẩn ở
mức cao hơn là đến năm 2015, Việt Nam phải cạnh tranh được với ASEAN 4 (4
nước tiên tiến nhất trong ASEAN).

"Tham gia hội nhập với rất nhiều nước lớn nhưng ASEAN phải là nơi đầu tiên
mà Việt Nam có thể cạnh tranh được. Không cạnh tranh được trong ASEAN thì
phải nói thẳng là với các đối tác lớn hơn như Hoa Kỳ, EU có khả năng cạnh
tranh cao hơn rất nhiều thì Việt Nam sẽ vô cùng khó khăn!" – Chuyên gia
Phạm Chi Lan nhấn mạnh.

*Để có 1 đồng lợi nhuận phải mất… 1,02 đồng "bôi trơn"!*

Bà Phạm Chi Lan còn nêu rõ, không chỉ xếp hạng về môi trường kinh doanh mà
xếp hạng về thể chế của Việt Nam hiện nay cũng khá thấp. Đặc biệt, trong
xếp hạng về thể chế thì Việt Nam xếp ở mức rất kém trong các chỉ số về chi
phí ngoài pháp luật, chi phí "bôi trơn" so với nhiều nước khác.

"Một điều tra cho thấy, ở Việt Nam, trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì DN
phải mất 1,02 đồng cho "bôi trơn". Có nghĩa, nếu tham nhũng ở nước ta giảm
đi 50% thì đã làm tăng được 50% lợi nhuận của DN rồi. Đây là một trong
những điều giải thích tại sao DN Việt Nam cứ nhỏ mãi. TS Trần Đình Thiên,
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam từng nhận xét DN Việt Nam hiện nay có xu
hướng… li ti hóa, tức là nhỏ đi so với trước!" – chuyên gia Phạm Chi Lan
cho hay.

Dẫn số liệu điều tra của Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam cho thấy,
so với 10 năm trước đây thì quy mô của DN Việt Nam hiện chỉ còn bằng một
nửa, chuyên gia Phạm Chi Lan bức xúc đặt câu hỏi. "Đáng lẽ sau 10 năm, quy
mô của DN Việt Nam phải lớn lên chứ tại sao lại nhỏ đi?".

Rồi bà trả lời: "Một trong những nguyên nhân chính là tham nhũng đã lấy mất
lớn hơn so với lợi nhuận của DN. Bị lấy mất lợi nhuận rồi thì DN còn gì để
tái đầu tư, để mở rộng được? Và DN sẽ co lại vì họ làm được 1 nhưng có
những ông khác không làm gì cả mà tước đoạt của họ hơn 1 thì tội gì họ làm
nữa".

<https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/08/h1138.jpg>

Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan phát biểu tại hội nghị (Ảnh: HC)

Theo chuyên gia Phạm Chi Lan, trong các nước tham gia TPP thì Việt Nam xếp
ở hàng thấp nhất về trình độ công nghệ dù đây là yếu tố mà ai cũng biết là
vô cùng quan trọng đối với năng lực cạnh tranh. Đây là vấn đề thuộc về tầm
quốc gia và phải được Nhà nước ưu tiên quan tâm chứ không hoàn toàn thuộc
trách nhiệm của DN.

"Hệ thống chính sách của chúng ta nói rất nhiều, rất hay về đổi mới công
nghệ nhưng trên thực tế, rất nhiều DN cho biết họ không thể tiếp cận được
với những chính sách khuyến khích của Nhà nước. Chỉ ai tự có năng lực thì
mới tự đổi mới công nghệ được thôi chứ còn họ "quên" đi tất cả những cái
của Nhà nước, bởi vì chi phí để nhận được ưu đãi có khi lại còn lớn hơn cả
mức được ưu đãi. Đó là điều rất đau gây cản trở cho sự phát triển công nghệ
của chúng ta!" – chuyên gia Phạm Chi Lan bức xúc nói.

*Mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển?!*

Bà Phạm Chi Lan nêu rõ, Nhà nước phải cố gắng rất nhiều để đàm phán và ký
kết các FTA, trong đó phải có những nhượng bộ để các đối tác mở cửa thị
trường cho mình. Nhưng trên thực tế, đến thời điểm này tận dụng được tốt
nhất FTA đã ký chỉ là với Hàn Quốc. Theo đó, hơn 73% chứng nhận xuất khẩu
sang Hàn Quốc là được hưởng ưu đãi. Nhưng đi sâu vào 73% này thì lại thấy
đa phần DN được hưởng ưu đãi lại là DN Hàn Quốc chứ không phải Việt Nam.

"Điều đó cho thấy DN Việt Nam chưa tận dụng được những ưu thế từ FTA. Chúng
tôi đang đề xuất Bộ Công thương xem lại chính cách thức của Bộ trong việc
cung cấp các ưu đãi hoặc phổ biến như thế nào mà để DN Việt Nam tiếp cận
được ưu đãi thấp như thế? Nếu DN không biết hoặc quá khó để tiếp cận được
thì là thành phí hoài công sức của các vị ấy đi đàm phán. Đây cũng là sự
lãng phí rất lớn!" – Bà Phạm Chi Lan nói.

Theo chuyên gia này, khó khăn đối với DN Việt Nam gần như là chuyện muôn
thuở. 5 – 7 năm nay, Diễn đàn Kinh tế thế giới tiến hành điều tra thì đều
cho ra sơ đồ tương tự nhau về khó khăn của DN Việt Nam chứ không thay đổi
bao nhiêu. Bà nói thẳng là cảm thấy rất đau khi các chuyên gia Diễn đàn
Kinh tế thế giới hỏi: Tại sao Việt Nam kỳ lạ thế, những điều này nói hoài
mà không sửa được, không thay đổi được?

"Một số chuyên gia WB còn nói đùa Việt Nam có lẽ là mô hình kỳ lạ nhất thế
giới. Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước
chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước…
không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế (20 năm qua
lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây giờ vẫn
không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển!" – chuyên
gia Phạm Chi Lan nói một cách khá chua chát.

Theo bà, khi tham gia các FTA thì không phải chỉ cạnh tranh ở tầm DN mà
cạnh tranh ở tầm nhà nước cũng vô cùng quan trọng. Nhà nước Việt Nam cũng
phải cạnh tranh với Nhà nước của các nước khác về thể chế, môi trường kinh
doanh, năng lực điều hành nền kinh tế vĩ mô… Mặc dù khi tham gia các FTA
thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đòi hỏi cao hơn, khắc nghiệt
hơn nhưng chính điều này sẽ giúp Việt Nam nâng tầm mình lên.

"Nói thật, chơi mà cứ cạnh tranh loanh quanh trong cái ao của ASEAN thì
không đủ. Chúng ta phải cố gắng để vươn ra biển lớn, chấp nhận sóng gió lớn
hơn thì mới có thể vượt lên được. Trong điều kiện môi trường kinh doanh của
chúng ta chưa thuận lợi, khi có các hiệp định mới này, chắc chắn Nhà nước
sẽ phải thay đổi nhiều về hệ thống luật pháp, chính sách trong nước cho phù
hợp với các cam kết. Và từ đó đổi mới kinh tế sang hệ thống kinh tế thị
trường đầy đủ sẽ giúp cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam tốt hơn, bình
đẳng hơn!" – Chuyên gia Phạm Chi Lan nhấn mạnh.
Nước… không chịu phát triển!

11/08/2015

*FB Nhân Thế Hoàng
<https://www.facebook.com/culoo.hoang/posts/857627114326865>*

11-08-2015

Trên thế giới người ta chia ra các mô hình kinh tế như nước phát triển,
nước đang phát triển và nước chậm phát triển để đánh giá vị thế của các
nước đó so với phần còn lại của thế giới.

Anh Việt Nam không chơi với 3 mô hình trên mà nằm vào mô hình thứ tư, mô
hình kỳ lạ và độc nhất vô nhị trên thế giới, đó là "nước…không chịu phát
triển". Gọi không chịu phát triển là vì trong 20 năm qua từ khi gia nhập
Asean, Việt Nam nhận từ ODA hơn 90 tỷ đô, rồi tiền kiều hối xấp xỉ cả chục
tỷ đô mỗi năm, ngoại tệ từ xuất khẩu tài nguyên khoáng sản..vv…nhưng Việt
Nam vẫn nằm trong top lạc hậu nhất Asean, xếp chung với Lào, Cam, Myanma.

Nguyên nhân chính được đưa ra cho tình trạng "không chịu phát triển" này là
do tham nhũng, theo điều tra thì để kiếm 1 đồng lợi nhuận, doanh nghiệp cần
phải bỏ 1,02 đồng tiền bôi trơn. Hiểu nôm na là bạn còng lưng thức khuya,
dậy sớm để nấu tô bún bán chẳng hạn, bạn muốn lời 5000 đồng/1 tô thì bạn
phải nộp hơn 5000 đồng cho cha dân phòng nằm vắt dái ngủ khì không làm gì
cả, nó chỉ có cái quyền duy nhất là quản lý cái vỉa hè bạn đang bán bún mà
thôi.

Bà Phạm Chi Lan-chuyên gia kinh tế nêu rõ: "không chỉ xếp hạng về môi
trường kinh doanh mà xếp hạng về thể chế của Việt Nam hiện nay cũng khá
thấp. Đặc biệt, trong xếp hạng về thể chế thì Việt Nam xếp ở mức rất kém
trong các chỉ số về chi phí ngoài pháp luật, chi phí "bôi trơn" so với
nhiều nước khác."

Tức là nếu cải thiện thể chế để bài trừ tham những thì lợi nhuận của doanh
nghiệp có thể tăng lên hơn 100%. Từ lợi nhuận tăng thêm đó doanh nghiệp mới
tái đầu tư, mở rộng quy mô, góp phần vào sự phát triển kinh tế; chứ đằng
này, làm vả mồ hôi dái mà lợi nhuận phải chia phần hơn cho thằng chuyên
hoạch hoẹ mình, làm cho chó ăn thì làm làm gì cho nó nhọc thân.

Đây cũng là lý do mà quy mô doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ, so với 10
năm trước đây thì quy mô của doanh nghiệp Việt Nam hiện tại đã giảm chỉ còn
một nữa. Đó, làm kinh tế kiểu ngược đời như vậy thì bảo sao Việt Nam không
mãi nghèo nàn, lạc hậu, ăn rồi xách cái bát lân lê các nước để ăn xin cho
được.

Bởi ta nói "thiên tai do bởi thiên tài đảng ta" là nó chính xác gì đâu luôn
á, không cãi được.

____

*KHÔNG CHỊU PHÁT TRIỂN*

*Võ Xuân Sơn <https://www.facebook.com/xuanson.vo.5/posts/549187111905086>*

10-08-2015

Không biết các chuyên gia của IMF nói đùa hay thật, nhưng những gì ở Việt
nam cho thấy họ nói đúng.

Cách đây vài ngày Singapore tổ chức kỉ niệm 50 năm thành lập nước. Sau 50
năm, từ một vùng đất hoang sơ, Sing gapore đã hoàn toàn vươn lên chiếu
trên, kể cả trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Việt nam, một đất
nước có dân số gấp nhiều lần, tài nguyên thiên nhiên phong phú, truyền
thống lâu đời… mọi xuất phát điểm đều hơn hẳn Singapore. Sau 40 năm thống
nhất đất nước, chúng ta có cái gì? Chúng ta được xếp ở đâu so với Singapore?

Như vậy thì câu nói không chịu phát triển đâu có sai.

Nhưng mà sai. Người dân Việt nam, doanh nghiệp Việt nam đâu có không muốn
phát triển. Muốn lắm chứ. Ai mà không muốn dân giàu nước mạnh, Họa có điên
mới không muốn, mà dân Việt nam đâu có điên hết cả lũ đâu.

Nhưng mà có đấy. Có những kẻ chỉ muốn giàu lên nhanh chóng, giàu bằng ăn
cắp, giàu bằng cách làm nghèo đất nước. Để có 1 đồng lợi nhuận, người dân
phải chi cho chúng 1,02 đồng để "bôi trơn", và doanh nghiệp chúng ta cứ thế
mà bị "li ti" hóa, co dần, teo tóp dần, chết dần chết mòn.

Chúng tôi, người dân Việt nam, đâu có ai muốn cái mô hình "đặc biệt nhất
thế giới", mô hình không chịu phát triển. Nhưng họ, những kẻ không muốn đất
nước này phát triển, những kẻ chỉ muốn trục lợi cá nhân, làm giàu cho cá
nhân mình, cho gia đình mình bằng cách ăn cắp tiền của dân, đục khoét ngân
sách, vắt cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm mất khả năng phát triển của
cả nền kinh tế nước nhà, chỉ có những kẻ đó là muốn duy trì cái mô hình
quái gở như vậy mà thôi.

Tham nhũng và cái mô hình duy trì tham nhũng chính là sức cản để đưa Việt
nam đi lên, nó chính là phản động lực, chống lại sự phát triển, sự đi lên
của dân tộc Việt nam, của đất nước Việt nam.

*Nghĩ về câu nói "một quốc gia không chịu phát triển"*

14/08/2015

*Dân Trí
<http://dantri.com.vn/su-kien/nghi-ve-cau-noi-mot-quoc-gia-khong-chiu-phat-trien-20150814070335531.htm>*

*Lê Chân Nhân*

14-08-2015

<https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/08/h1193.jpg>

(Minh Họa: Ngọc Diệp)

*Việt Nam không phải không chịu phát triển, mà phát triển nhưng bị tham
nhũng ăn chặn một nửa. Những gì làm ra vốn quá ít ỏi so với các nước, lại
bị mất đi một nửa thì thử hỏi còn được gì trong tay!*

"Một số chuyên gia World Bank còn nói đùa Việt Nam có lẽ là mô hình kỳ lạ
nhất thế giới. Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát
triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất.
Đó là nước… không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế
(20 năm qua lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây
giờ vẫn không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển!" –
Đó là phát biểu của chuyên gia Phạm Chi Lan tại Hội nghị kết nối các DN nhỏ
và vừa toàn quốc do Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam tổ chức chiều 8/8 ở Đà
Nẵng.

Câu nói này được bàn luận suốt mấy ngày qua trên các diễn đàn với nhiều ý
kiến rất tích cực, tựu trung là chuyên gia của World Bank đưa ra một lời
cảnh báo cho Việt Nam. Chỉ có lời nói thẳng mới làm cho chúng ta tỉnh thức,
những lời tự vuốt ve còn nguy hiểm hơn thuốc độc.

Không phải là Việt Nam không phát triển mà đúng hơn là phát triển không
tương xứng với tiềm năng của chính mình. Vậy thì lực cản nằm ở đâu, có phải
vì thiếu hệ thống pháp luật đủ mạnh không, có phải vì thiếu chính sách phù
hợp không? Thưa không, lực cản chính là do tham nhũng. Không quốc gia nào
có thể phát triển được nếu như không chống được tham nhũng, không lụn bại
đã là may.

Tại diễn dàn này, các chuyên gia kinh tế dẫn số liệu của Phòng Thương mại –
Công nghiệp Việt Nam, so với 10 năm trước đây thì quy mô của doanh nghiệp
Việt Nam chỉ còn một nửa. Lạ quá, lẽ ra sau 10 năm thì quy mô của doanh
nghiệp Viêt Nam phải lớn hơn, sao lại có thể teo đi, đây là câu hỏi rất đau
đầu nhưng không phải khó chỉ ra lời giải đáp.

Và đây là câu trả lời của chuyên gia Pham Chi Lan: "Một điều tra cho thấy,
ở Việt Nam, trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì DN phải mất 1,02 đồng cho
"bôi trơn". Có nghĩa là, doanh nghiệp đã bị mất đi một nửa nguồn lực cho
tham nhũng. Thay vì số tiền đó được sử dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh
thì lại bỏ vào túi của tham nhũng. Suy càng sâu, càng thấy tội ác của tham
nhũng, nó không chỉ ăn tiền của các cá nhân, của doanh nghiệp, của xã hội,
mà còn phá hoại nền kinh tế, là lực cản phát triển đất nước.

Một vấn đề từng đặt ra là tại sao Việt Nam không sinh ra được những doanh
nhân có thể xây dựng được những thương hiệu lớn như Honda, Toyota… của Nhật
bản hay Samsung, Hyundai… của Hàn Quốc. Câu trả lời cũng đã đặt ra ở trên,
đó là vì tham nhũng.

Thế thì, Việt Nam không phải không chịu phát triển, mà phát triển nhưng bị
tham nhũng ăn chặn một nửa. Những gì làm ra vốn quá ít ỏi so với các nước,
lại bị mất đi một nửa thì thử hỏi còn được gì trong tay!
Nhưng nếu có cách để so sánh tài sản của quan chức của các nước, có lẽ vị
trí của Việt Nam lại thuộc thứ hạng "không phải dạng vừa đâu".
----------------------------------------------------------------------------

Sự trùng hợp kỳ lạ của hai bậc thiên tài

*(Dân trí) - "Những từ tưởng lớn thường gặp nhau". Tư tưởng của Hồ Chủ tịch
và của ông Lý Quang Diệu là những tư tưởng lớn nên đã "gặp nhau". *





"Nếu thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát triển kinh tế". Đó
là câu nói của ông Lý Quang Diệu khi thăm Việt Nam năm 2007.

Một câu nói tuyệt vời của một tư tưởng vĩ đại và hoàn toàn có thể hiểu
ngược lại, thậm chí rộng hơn: "Thất bại trong giáo dục là thất bại không
chỉ của kinh tế mà là sự thất bại toàn diện".

Ông Lý Quang Diệu đã nói câu trên bằng chính sự trải nghiệm thực tế của
mình. Ngay từ những ngày đầu dành độc lập, với cương vị Thủtướng, ông đã đề
ra hàng loạt chính sách để trọng dụng nhân tài, tiếng Anh và quan điểm phát
triển giáo dục.

Vềtrọng dụng, thu hút nhân tài, ông Lý đã có những chỉ đạo quyết liệt và cụ
thểnên rất có hiệu quả ở cả hai phương diện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
trong nướcđồng thời biến Singapore trở thành "vùng trũng", hội tụ tài năng
của nhiều quốc gia trên thế giới.

Thậm chí, là một đất nước có diện tích rất nhỏ bé nhưng Singapore vẫn cho
phép và mời gọi những nhà khoa học, kỹ thuật lớn đến nhập cư, chấp nhận
những cư dân trong khu vực, đặc biệt là những công dân đến từ Ấn Độ.

Ông cho lập 2 ủy ban trong đó một ủy ban có nhiệm vụ giúp những người có
năng lực làm đúng nghề và một ủy ban kết hợp họ lại thành một xã hội thu
nhỏ.

"Nếu không lấp vào chỗ trống bằng những tài năng nước ngoài, chúng tôi
không làm cho đất nước vươn lên hàng đầuđược. Họ chính là những megabytes
bổ sung cho chiếc computer Singapore". Ông Lý Quang Diệu thẳng thắn bày tỏ.

Một trong những quyết định được cho là "then chốt" đểSingapore bắt nhịp sự
phát triển của thế giới, đó là chọn tiếng Anh làm một trong bốn loại ngôn
ngữ được sử dụng chính thức ở Đảo quốc Sư tử.

Với phương châm "Nắm vững tiếng Anh,đó là chìa khóa để giành lấy tri thức,
công nghệ cao của phương Tây" nên trong tất cả các trường học ở Singapore
đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc. Điều này trái ngược hẳn với
Malaysia dùng ngôn ngữ bản địa và hậu quả thì như mọi người đã biết.

Cũng trong lần thăm Việt nam năm 2007, ông Lý Quang Diệu đã có những chia
sẻ rất tâm huyết: "Nếu tất cả sinh viên Việt Nam sau này không thể nghe và
nói tiếng Anh trôi chảy, chỉ có thể đọc thôi cũng đã là tụt hậu".

Điều kỳlạ là dù tuổi đời cách nhau 33 năm, những điều ông Lý Quang Diệu
(1923) nói hầu như trùng hợp với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890).

Về giáo dục, ngay từ những ngày đầu dành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký sắc lệnh số 01 của nước Việt nam dân chủ cộng hòa về "Diệt giặc đói,
diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm".

Điều này có thể hiểu là ưu tiên diệt giặc đói là số một, số hai là giặc dốt
và thứ ba là giặc ngoại xâm.

Về trọng dụng nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cử nhiều sinh viên
ra nước ngoài học tập mà còn thu hút nhiều nhân tài về nước đóng góp cho Tổ
quốc như các Giáo sư Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của…

Đối với giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ bảo rất cụ thể và
cho đến hôm nay vẫn chưa hề cũ, thậm chí còn đầy tính thời sự khi sự quá
tải đang trở thành "hiểm họa": "Trẻ em như búp trên cành – Biếtăn, biết
ngủ, biết học hành là ngoan".

Về đào tạo nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Vì sự nghiệp mười
năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người".

Trong suốt cuộc đời mình và cho đến khi từ giã cuộcđời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ có một mong muốn lớn nhất: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"..

"Những từ tưởng lớn thường gặp nhau". Tư tưởng của HồChủ tịch và của ông Lý
Quang Diệu là những tư tưởng lớn nên đã "gặp nhau".

*Bùi Hoàng Tám*
Lý Quang Diệu và Phạm Văn Đồng

27/03/2015

*Nguyễn Văn Tuấn*
<http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/03/ly-quang-dieu-va-pham-van-ong.html>

25-03-2015

<https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/03/h1210.jpg>Thế là ông Lý Quang
Diệu đã về cõi vĩnh hằng ở tuổi 91. Đã có rất nhiều bài báo viết về cuộc
đời và sự nghiệp to lớn của ông, những gì chúng ta viết có nguy cơ cao bị
rơi vào sự thừa thải. Nhưng viết về ông dựa trên cái nhìn của VN thì chắc
không thừa. Ông Lý Quang Diệu làm thủ tướng Singapore khoảng 31 năm. Ông
Phạm Văn Đồng cũng làm thủ tướng [một phần và sau này toàn phần VN] được 32
năm. Nhưng hai người để lại những di sản rất khác nhau.

Ông Lý đúng là một kiến quốc sư thật sự. Ông "hoán chuyển" một làng chài
chỉ độ 100 dân nghèo khó và không có tài nguyên thành một quốc đảo giàu có,
một trung tâm thương mại và trung chuyển quốc tế. Ông cầm lái "con thuyền
Singapore" đi từ nghèo đói đến thịnh vượng, sang chế độ dân chủ [dù chỉ nửa
vời], đến toàn cầu hoá. Ông không bao giờ tự xưng là "cha gia dân tộc",
nhưng người dân Singapore xem ông như là một cha đẻ của Singapore hiện đại.
Ông ra đi và để lại một Singapore đầy tự tin, xán lạn. Trên trường quốc tế,
ông được hầu như tất cả các lãnh tụ quốc gia xem như là một "statesman" –
chính khách. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến sáng suốt, về tính
quyết đoán, về cách nói trực tiếp và trong sáng, về trí thông minh, và tính
dí dỏm của một người có học. Ông còn để lại những câu phát ngôn trứ danh,
những phát ngôn mà thế giới sẽ còn nghiền ngẫm trong tương lai.

Ông Phạm Văn Đồng sau hơn 30 năm làm thủ tướng và khi ra đi chẳng để lại
một di sản gì đáng để xưng tụng. Suốt 30 năm làm thủ tướng hình như ông
chẳng có dấu ấn gì đáng nói. Nước VN do ông lãnh đạo từ nghèo đói vẫn hoàn
nghèo đói. Ông để lại cái văn bản ngoại giao đầy tai tiếng và có thể nói là
sẽ làm nhơ danh ông rất rất lâu. Ông chỉ được tiếng là người trong sạch và
giản dị. Nhưng ông chẳng có những phát ngôn gì để có thể xem là "wisdom".

Về qui mô, nói cho cùng, tôi nghĩ ông Lý là người chỉ tương đương với vai
trò của một thị trưởng mà thôi. Nên nhớ rằng trong quá khứ, ông Lý Quang
Diệu từng bị báo chí Nhà nước Việt Nam chửi như tát nước. Ông được cho đội
đủ thứ "nón": nào là tay sai đế quốc, là chống cộng, là chống nhân dân Việt
Nam. Thế nhưng đùng một cái, Việt Nam "mặn nồng" với ông Lý Quang Diệu. Ông
Võ Văn Kiệt từng mời ông Diệu làm cố vấn và cộng tác. Nhưng ông Lý từ chối,
và nói rằng nếu không có Mĩ gật đầu thì VN vô phương phát triển. Ông Lý nói
rằng Mĩ là chìa khoá, Mĩ là động cơ để phát triển. Ngay cả Tàu cũng phải ôm
lấy Mĩ mà phát triển, thì VN không nên xem thường Mĩ.

Mà, ông cho ý kiến rất thành thật. Có thể nói ông Lý là một "fan" của Việt
Nam, nhưng không phải là fan của giới lãnh đạo VN. Ông Lý khen người Việt
Nam thông minh, học hành giỏi, và khi ra nước ngoài thường thành công. Ông
tiếc nuối rằng đáng lẽ VN phải là số 1 của Đông Nam Á, hay thậm chí hàng
đầu của Á châu, vì VN có đủ điều kiện từ địa dư, tài nguyên đến con người
để trở thành một cường quốc.

Thế nhưng ông tiếc cho VN, và ông chê lãnh đạo VN. Khi được hỏi ý kiến, ông
khuyên là cải cách kinh tế cần phải đi đôi với cải cách chính trị, nhưng
giới lãnh đạo VN không chịu nghe. Ông nói rằng giới lãnh đạo VN không thể
khá lên được vì họ bị "giam tù" bởi vòng kim cô ý thức hệ cộng sản. Theo
ông, giới lãnh đạo VN không có khả năng đổi mới bản thân họ, không có khả
năng đổi mới tư duy chính trị kịp thời đại, và do đó họ làm trì trệ sự phát
triển của đất nước, họ kéo đất nước họ xuống hàng lạc hậu và nghèo đói. Tôi
nghĩ nếu tôi là lãnh đạo của VN, tôi cảm thấy nhục khi nghe ý kiến như thế
của một ông chỉ xứng tầm thị trưởng. Nhưng vấn đề là ông nói đúng.

Nhưng cũng phải nói thẳng là cái xã hội mà ông Lý kiến tạo chưa hẳn là "tối
ưu" đâu. Nên nhớ rằng có thời ông ấy theo đuổi chủ nghĩa ưu sinh, khuyến
khích người có bằng đại học lấy nhau. Ông hạn chế tự do báo chí và tự do
ngôn luận. Ông tạo ra một "Anh Cả" (big brother) quan sát mọi hành vi của
công dân. Ông can thiệp thô bạo vào đời sống riêng tư của người dân. Bởi
thế, có lần một nhà báo hỏi tôi là đại học Việt Nam nên học đại học
Singapore, tôi trả lời là không, bởi vì theo tôi biết qua vài trường hợp
thì các đại học Singapore không có tự do học thuật như ở phương Tây. Nghe
nói cái mô hình cai trị của ông Lý được giới lãnh đạo Tàu rất thích, và như
thế thì cũng đủ để chúng ta cẩn thận với "mô hình Singapore".

Nhưng có một điểm sáng của Singapore mà tôi thích, đó là phi ý thức hệ. Nói
về ý thức hệ, ông Lý cho biết Singapore là một quốc gia phi ý thức hệ
(ideology-free). Nếu có thì ông gọi đó là "Ý thức hệ Singapore", thấy cái
gì tốt và có lợi cho quốc gia dân tộc thì làm, chứ không bị trói buộc vào
bất cứ một ý thức hệ nào cả. Ông nói thêm rằng nếu nó [ý thức hệ Singapore]
có hiệu quả, thì chúng ta hãy thử nghiệm nó xem sao. Nếu nó tốt thì chúng
ta tiếp tục. Nếu nó không có hiệu quả thì chúng ta quẳng nó đi và thử cái
khác. Một "triết lí" thực dụng và đơn giản thế mà tại sao những người đang
lèo lái con thuyền VN không nhận ra. Tại sao phải bám theo một chủ nghĩa đã
lỗi thời và hết sức sống.

PS: Biểu đồ so sánh thu nhập bình quân giữa Singapore và Việt Nam từ
1960-2011

<https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/03/h1211.jpg>______

*Nguyễn Văn Tuấn*
<http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/03/tu-tuong-lon-gap-nhau.html>

25-03-2015

Ông Lý Quang Diệu qua đời là nguồn cảm hứng của biết bao nhiêu so sánh và
ngợi ca. Nhưng có một so sánh làm tôi gãi đầu bứt tai, đó là "phát hiện"
rằng ông Lý Quang Diệu và ông Hồ Chí Minh có cùng tư tưởng về tầm quan
trọng của giáo dục (1). Bài báo này còn nâng hai vị đó, ông Hồ và ông Lý,
lên bậc "thiên tài"! Tôi thì thấy khác: tôi nghĩ hai người có suy nghĩ khác
nhau về giáo dục. Cái tầm nhìn về giáo dục của ông Lý, nói cho công bằng,
cao hơn cái tầm nhìn của ông Hồ.

Có lẽ câu phát ngôn về giáo dục của ông Lý được nhiều người trích dẫn là
câu "*Thất bại trong giáo dục là thất bại không chỉ của kinh tế mà là sự
thất bại toàn diện*". Đó là một sự đúc kết từ quan sát thực tiễn và chiêm
nghiệm sự phát triển của phương Tây và so sánh với tình hình ở Á châu. Ông
kết luận rằng một nền giáo dục đại học tiên tiến là một chìa khoá cho phát
triển kinh tế. Đó chính là lí do tại sao một đảo quốc nhỏ chỉ cỡ đảo Phú
Quốc mà xây dựng được hai đại học danh giá như NUS và Nanyang. Cái tầm nhìn
giáo dục của ông Lý là tầm nhìn giáo dục cấp đại học, tầm nhìn về vai trò
của khoa học và công nghệ. Đó cũng chính là lí do người ta lấy tên ông đặt
tên cho một trường kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Singapore.

Còn tầm nhìn về giáo dục của ông cụ Hồ là tầm nhìn giới hạn trong việc xoá
nạn mù chữ. Cũng hợp lí thôi, bởi vì thời đó ở VN chúng ta có rất nhiều
người nghèo đói và không biết đọc biết viết chữ quốc ngữ. Nên tôi nghĩ bất
cứ lãnh đạo nào cũng phải đặt mục tiêu xoá mù chữ là hàng đầu. Đó chính là
động cơ cho câu nói nổi tiếng của ông: "*Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và
diệt giặc ngoại xâm*". Tôi nghĩ lúc đó ông Hồ chưa nghĩ gì đến giáo dục đại
học, chứ nói gì đến khoa học công nghệ.

Có một câu nói khác về giáo dục mà rất nhiều người lầm tưởng rằng là sáng
kiến của ông Hồ. Đó là câu "*Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì sự nghiệp
trăm năm trồng người*". Câu đó không phải của ông Hồ; ông có lẽ lấy hay
mượn ý và chữ của một tác gia bên Tàu mà thôi. Câu đó do tư tưởng gia Quản
Trọng nói cách đây hơn 2000 năm: "*Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc; thập
niên chi kế tại ư thụ mộc; bách niên chi kế tại ư thụ nhân*." (Kế một năm
trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người.) Chủ tịch Hồ Chí
Minh không sáng tác ra câu đó. Do đó, cho rằng đó là tư tưởng đào tạo nhân
tài của ông Hồ thì tôi e rằng quá gượng ép.

Nếu nói ông cụ Hồ quan tâm đến đào tạo nhân tài thì giải thích thế nào khi
những người tài như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, và nhiều người khác
bị vùi dập trong thời gian ông ở đỉnh cao của quyền lực? Nếu ông thực sự
quan tâm đến công lí và đại học thì tại sao Trường đại học Luật Hà Nội bị
đóng cửa?

Do đó, tôi nghĩ quan tâm về giáo dục của ông Hồ ở tầm thấp hơn và địa
phương hơn so với tầm của ông Lý. Trong khi ông Lý nói về "university
education", "innovation", "management", "global entrepreneuship" thì ông Hồ
chỉ nói đến giáo dục trong vai trò xoá nạn mù chữ. Cho đến cuối đời, ông Hồ
cũng chỉ nói đến ước mơ "ai cũng được học hành", chứ ông chưa nghĩ đến cái
gì cao xa như giáo dục đại học hay khoa học và công nghệ. Mà, ông cũng chỉ
nói câu đó rất chung chung, rất ví von, chứ không phải cụ thể như ông Lý.
Tôi nghĩ không nên nâng tầm những câu ví von đó thành "tư tưởng".

Thật ra, sự khác biệt này cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì hai
người có trình độ rất khác nhau. Tôi nghĩ trình độ học vấn và trải nghiệm
quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong tầm nhìn và viễn kiến. Người có
cơ hội sống và học tập trong môi trường đẳng cấp quốc tế, có dịp tiếp kiến
với giới "*elite*" (tinh hoa), thì gần như tự nhiên, họ có tầm nhìn cao và
xa. Còn người không có cơ hội làm việc và sống trong môi trường học thuật
tốt thì tầm nhìn của họ cũng hạn chế. Trong khoa học cũng thế, người xuất
phát từ các trung tâm đẳng cấp quốc tế rất khác với người xuất phát từ
những nơi thấp hơn. Một công trình được nơi A đánh giá là tuyệt vời, nhưng
với người ở đẳng cấp cao hơn thì họ có thể xem đó chỉ là công trình xoàng.
Ông bà chúng ta có câu "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" là rất rất đúng.

Ông Lý là một người có học đàng hoàng, học từ những trường danh giá bậc
nhất trên thế giới. Ông từng theo học và tốt nghiệp luật hạng danh dự từ
Đại học Cambridge của Anh. Ông từng tiêu ra một thời gian ngắn ở London
School of Economics, một trường kinh tế lừng danh trên thế giới. Một người
học giỏi và rộng như thế, được tiếp xúc với môi trường *elite* như thế thì
chắc thừa đủ kiến thức để không mắc vào cái bẫy của một chủ nghĩa không
tưởng. Nên nhớ rằng ông Lý là người không ưa cộng sản. Còn ông Hồ, thì do
hoàn cảnh đất nước và gia đình, chưa xong bậc trung học, trình độ nói chung
còn hạn chế. Ông tiêu ra rất nhiều năm nay đây mai đó làm chính trị, làm
cách mạng, hơn là học hành. Do đó, sẽ là không công bằng nếu đòi hỏi ông Hồ
phải có được cái viễn kiến cao xa như ông Lý. Nói như thế không có nghĩa là
đánh giá thấp sự nghiệp và đóng góp của ông Hồ, mà chỉ muốn đặt câu nói về
giáo dục của ông trong bối cảnh thực tế, và qua đó để thấy rằng tầm nhìn về
giáo dục của ông Hồ rất khác với tầm nhìn của ông Lý Quang Diệu.

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Re: truyện kiều 2

Nghịch lý của thị trường lao động thời kỹ thuật số
Ngày: 12 / 08 / 2015 Trong: Tư Duy Đại Dương | bình luận : 0
Nghịch lý của thị trường lao động thời kỹ thuật số
Theo InfoNet/Economist – Thu Hương – 10 Oct 2014
Cách mạng công nghệ đem đến những thay đổi lớn lao cho thị trường lao
động ở cả nước giàu và nước nghèo.
Thời điểm tốt nhất để đánh giá ý nghĩa của các cuộc cách mạng công
nghệ là một thời gian rất lâu sau đó. Những phát minh vĩ đại của thế
kỷ 19, từ điện năng cho tới động cơ đốt trong, đã biến đổi hoàn toàn
đời sống của con người. Tuy nhiên, đối với các công nhân sống qua thời
kỳ này, những điều mà họ đã trải qua trong thời kỳ công nghiệp hóa khá
khắc nghiệt bởi phải làm những công việc cực nhọc trong những thành
phố quá đông đúc và có thể bị bệnh tật đe dọa.

Cuộc cách mạng công nghệ hiện đại – với cột mốc đánh dấu là sự ra đời
của máy tính, sự kết nối và đồng hóa dữ liệu – đã mang đến điện thoại
iPhone và internet thay vì những căn nhà tập thể đông đúc và bệnh
dịch. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này khiến thị trường lao động biến đổi
và bị chia tách với tốc độ chưa từng thấy trong hơn 1 thế kỷ. Người ta
có thể tạo ra lượng lớn của cải mà không cần đến quá nhiều lao động mà
chỉ cần một nhóm những người tinh hoa. Đồng thời, không còn có thể đảm
bảo chắc chắn lao động sẽ làm tăng thu nhập.

Máy tính có thể làm công việc của bạn và "ăn mất bữa trưa của bạn"

Ở thời điểm hiện tại, lao động có trình độ thấp và trung bình ở các
nước giàu đang cảm nhận rõ nhất điều này. Thu nhập của bộ phận lao
động có trình độ cao – những người sử dụng máy tính thành tạo – tăng
lên đáng kể trong khi thu nhập của những bộ phận ở các trình độ thấp
hơn hầu như không tăng kể từ năm 2000 đến nay. Ở các nước như Đức và
Anh, tăng trưởng tiền lương trì trệ nhất.

Trong các năm sắp tới, hiện tượng này sẽ lan rộng hơn vì 3 lý do. Thứ
nhất, sự trỗi dậy của các cỗ máy thông minh có nghĩa là có thêm nhiều
lao động chứng kiến công việc của họ bị đe dọa. Các nấc thang cao hơn
của thị trường lao động như kiểm toán viên hay nhà nghiên cứu ở tất cả
các lĩnh vực sẽ bắt đầu phải cạnh tranh với máy móc. Công nghệ cho
phép một số bác sĩ và giáo sư làm việc năng suất hơn, khiến một số
người mất việc.

Thứ hai, trong thời đại số, các doanh nhân có thể biến ý tưởng của họ
thành các doanh nghiệp có giá trị vốn hóa khổng lồ nhưng hầu như không
có nhân viên. Ví dụ, hãng sản xuất thiết bị thực ảo Oculus VR chỉ có
75 nhân viên nhưng được Facebook mua lại với giá 2 tỷ USD. Với số nhân
viên chưa tới 50.000 người, những gã khổng lồ trong ngành công nghệ
như Google và .Facebook có quy mô rất nhỏ so với những "ông trùm công
nghiệp" của thế kỷ 20.

Thứ ba, hiện tượng này đã xuất hiện ở các nền kinh tế mới nổi. Foxconn
– công ty lâu nay vẫn là biểu tượng của nền kinh tế tập trung vào sản
xuất của Trung Quốc – hiện đang có khoảng 1,5 triệu lao động sản xuất
linh kiện điện tử cho các hãng phương Tây. Tuy nhiên, giờ đây với chi
phí lao động tăng lên, Foxconn đang dần thay thế công nhân bằng các
robot. Tương lai của Trung Quốc giờ đây là Alibaba thay vì những công
xưởng của thế giới. Công ty thương mại điện tử của tỷ phú Jack Ma vừa
niêm yết trên sàn chứng khoán New York chỉ có 20.000 nhân viên.

Cuộc cách mạng công nghệ dường như cũng đang khiến các nước nghèo phải
thay đổi con đường theo đuổi tăng trưởng truyền thống. Mang những lao
động có trình độ thấp ở nông thôn đến các nhà máy đã trở thành công
việc khó khăn. Ví dụ, nếu Ấn Độ muốn đi theo mô hình phát triển của
Trung Quốc, quốc gia này cần đến các kỹ sư lành nghề và những người
quản lý xây nhà máy để tạo công ăn việc làm cho hàng triệu công nhân.
Tuy nhiên, nhờ vào công nghệ, giới tinh hoa nước này có được mức lương
rất cao khi bán các sản phẩm IT cho nước ngoài.

Lấp đầy lỗ hổng

Các bộ phim khoa học viễn tưởng thường vẽ ra tương lai con người bị
máy móc và công nghệ chi phối. Tuy nhiên, The Economist cho rằng viễn
cảnh ấy còn lâu mới xảy ra, thậm chí công nghệ chỉ giúp cuộc sống của
con người dễ dàng và tốt đẹp hơn. Công nghệ thông tin giúp cuộc sống
của hàng tỷ người tốt đẹp hơn theo những cách mà các thước đo về thu
nhập thông thường không thể phản ánh được.

Cách con người giao tiếp và giải trí hay các kiến thức mà con người
thu thập được gần như là miễn phí. Dù công việc bị đe dọa, sẽ chẳng có
người lao động nào muốn quay trở lại thời kỳ không có internet, điện
thoại thông minh hay Facebook. Công nghệ cũng đem đến những cách kiếm
tiền hoàn toàn mới. Etsy, chợ ảo dành cho các thợ thủ công, cho phép
họ bán sản phẩm ra khắp thế giới. Uber – hãng taxi đang tạo nên bước
đột phá trong ngành kinh doanh taxi – cho phép hàng chục nghìn tài xế
làm việc bất cứ khi nào họ muốn mà không bị gò bó về thời gian như mô
hình kinh doanh truyền thống.

Dẫu vậy, hố sâu ngăn cách giữa người có trình độ cao và bộ phận lao
động phổ thông vẫn là điều đáng lo ngại. Các cử tri giận dữ khi lương
của họ gần như không tăng. Ở các nước nghèo, những "đội quân" người
lao động thất vọng vì phải làm những công việc thấp hơn trình độ của
họ là nguồn gây phân cực và bất ổn xã hội.

Trên toàn cầu, chính phủ các nước đang rất cố gắng tìm giải pháp cho
vấn đề này. Tuy nhiên, câu trả lời không phải là một chính phủ to hơn
hay các quy định luật lệ. Mức lương tối thiểu tăng lên chỉ khiến có
nhiều hơn lao động bị thay thế bằng máy móc. Tăng thuế khiến doanh
nghiệp sợ hãi. Điều tốt nhất mà các chính phủ có thể làm là tăng sản
lượng và giúp các lao động có trình độ thấp được tuyển nhiều hơn. Điều
này có nghĩa là loại bỏ những quy tắc không khuyến khích tăng thuê
nhân công như các chính sách bảo hộ; triển khai chính sách nhà ở tốt
hơn và đầu tư nhiều hơn vào giao thông. Hệ thống giáo dục cũng cần
được cải cách, không chỉ hướng tới những người trẻ mà ngày nay, con
người phải học tập cả đời để luôn cập nhật những thay đổi của công
nghệ.

Mặc dù các chính phủ có thể phòng tránh vấn đề, họ không thể giải
quyết triệt để. Vì công nghệ ngày càng tiến bộ vượt bậc và ảnh hưởng
nhiều hơn tới thị trường lao động, sẽ ngày càng có nhiều công nhân chỉ
được tuyển dụng ở những công việc có thu nhập thấp hơn. Khoảng trống
đó phải được bù đắp bằng tăng thuế hoặc nâng trợ cấp lương. Các chính
phủ có thể tăng thuế không chỉ bằng cách tăng thuế suất mà còn bằng
cách "đóng cửa" các lỗ hổng mà qua đó các doanh nghiệp có thể trốn
thuế.

Ở thế kỷ 19, điều tốt nhất mà các chính phủ đã làm được là đầu tư vào
giáo dục để giúp người lao động hưởng lợi từ cách mạng công nghiệp.
Trong cuộc cách mạng số ngày nay, các chính phủ cần phản ứng nhanh hơn
và mạnh mẽ hơn.


Các bài viết liên quan:
1. Chiến thuật du kích thời internet
2. Nghịch lý trong môi trường đầu tư Việt
3. Chiến Thuật Tăng Trưởng Theo Từng Cột Mốc
4. Thời điểm trả giá cho các thị trường đầu cơ
5. 'Nên để thị trường bất động sản rơi tự do'
vvv


On 8/12/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> truyện kiều 2
> Tác giả: Nguyễn Du
> Kể chi những nỗi dọc đường,
> Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà:
> Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
> Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
> Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
> Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngàỵ
> ¥ở ăn thì nết cũng hay,
> Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
> Từ nghe vườn mới thêm hoa,
> Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
> Lửa tâm càng dập càng nồng,
> Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
> Ví bằng thú thật cùng ta,
> Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
> Dại chi chẳng giữ lấy nền,
> Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
> Lại còn bưng bít giấu quanh,
> Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
> Tính rằng cách mặt khuất lời,
> Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
> Lo gì việc ấy mà lo,
> Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
> Làm cho nhìn chẳng được nhau,
> Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
> Làm cho trông thấy nhãn tiền,
> Cho người thăm ván bán thuyền biết taỵ
> Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
> Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
> Tuần sau bỗng thấy hai người,
> Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
> Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
> Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
> Chồng tao nào phải như ai,
> Điều này hẳn miệng những người thị phi!
> Vội vàng xuống lệnh ra uy,
> Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
> Trong ngoài cửa kín mít như bưng.
> Nào ai còn dám nói năng một lời!
> Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
> Ra vào một mực nói cười như không.
> Đêm ngày lòng những dặn lòng,
> Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
> Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
> Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
> Tẩy trần vui chén thong dong,
> Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
> Chàng về xem ý tứ nhà,
> Sự mình cũng rắp lân la giãi bàỵ
> Mấy phen cười nói tỉnh say,
> Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
> Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
> Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
> Những là e ấp dùng dằng,
> Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
> Có khi vui chuyện mua cười,
> Tiểu thư lại giỡ những lời đâu đâu.
> Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
> Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
> Khen cho những miệng dông dài,
> Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
> Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
> Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
> Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
> Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
> Những là cười phấn cợt son,
> Đèn khuya chung bóng trăm tròn sánh vai.
> Thú quê thuần vược vén mùi,
> Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
> Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
> Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
> Tình riêng chưa dám rỉ răng,
> Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
> Cách năm mây bạc xa xa,
> Lâmtruy cũng phải tính mà thần hôn.
> Được lời như mở tấc son,
> Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
> Long lanh đáy nước in trời,
> Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
> Roi câu vừa gióng dặm trường,
> Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
> Thưa nhà huyên hết mọi tình,
> Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
> Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
> Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
> Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
> Mưa cao vốn đã rắp ranh những ngàỵ
> Lâmtruy đường bộ tháng chầy,
> Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
> Dọn thuyền lựa mặt giai nhân,
> Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
> Làm cho cho mệt cho mê,
> Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
> Trước cho bỏ ghét những người,
> Sao cho để một trò cười về sau.
> Phu nhân khen chước rất mầu.
> Chiều con mới dạy mặc dầu ra taỵ
> Sửa sang buồm gió lèo mây,
> Khuyển ¦ng lại chọn một bầy côn quang.
> Dặn dò hết các mọi đường,
> Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
> Nàng từ chiếc bóng song the,
> Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
> Bóng dâu đã xế ngang đầu,
> Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
> Tóc thề đã chấm ngang vai,
> Nào lời non nước nào lời sắt son.
> Sắn bìm chút phận cỏn con,
> Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
> Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
> Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao!
> Đêm thu gió lọt song đào,
> Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
> Nén hương đến trước Phật đài,
> Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
> Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
> ¢ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
> Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
> Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
> Thuốc mê đâu đã tưới vào,
> Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
> Vực ngay lên ngựa tức thì,
> Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
> Sẵn thấy vô chủ bên sông,
> Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
> Tôi đôi phách lạc hồn bay,
> Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
> Thúc ông nhà cũng gần quanh,
> Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
> Tớ thấy chạy thẳng đến nơi,
> Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
> Gió cao ngọn lửa càng cao,
> Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
> Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
> Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
> Chạy vào chốn cũ phòng hương,
> Trong tro thấy một đống xương cháy tàn,
> Ngay tình ai biết mưu gian,
> Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
> Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
> Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
> Di hài nhặt sắp về nhà,
> Nào là khâm liệm nào là tang trai.
> Lễ thường đã đủ một hai,
> Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
> Bước vào chốn cũ lầu thơ,
> Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
> Sang nhà cha tới trung đường,
> Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
> Hỡi ôi nói hết sự duyên,
> Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
> Gieo mình vật vã khóc than:
> Con người thế ấy thác oan thế nàỵ
> Chắc rằng mai trúc lại vầy,
> Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
> Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
> Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuâỵ
> Gần miền nghe có một thầỵ
> Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
> Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
> Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
> Sắm sanh lễ vật rước sang,
> Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
> Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
> Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
> Trở về minh bạc nói tường:
> Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
> Người này nặng nghiệp oan gia,
> Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
> Mệnh cung đang mắc nạn to,
> Một năm nữa mới thăm dò được tin.
> Hai bên giáp mặt chiền chiền,
> Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
> Nghe lời nói lạ đường này,
> Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
> Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
> Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
> Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
> Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
> Nước trôi hoa rụng đã yên,
> Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
> Khuyển ¦ng đã đắt mưu gian,
> Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
> Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
> Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
> Giã đò lên trước sảnh đường,
> Khuyển ¦ng hai đứa nộp nàng dâng công.
> Vực nàng tạm xuống môn phòng,
> Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
> Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
> Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
> Bàng hoàng dở tỉnh dở say,
> Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
> Aả hoàn trên dưới giục mau,
> Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
> Ngước trông tòa rộng dãy dài,
> Thiên quan trủng tể có bài treo trên.
> Ban ngày sáp thắp hai bên,
> Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
> Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
> Sự mình nàng phải cứ mà gởi thưa.
> Bất tình nổi trận mây mưa,
> Mắng rằng: Những giống bơ thờ quen thân.
> Con này chẳng phải thiện nhân,
> Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
> Ra tuồng mèo mả gà đồng,
> Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
> Đã đem mình bán cửa tao,
> Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
> Nào là gia pháp nọ bay!
> Hãy cho ba chục biết tay một lần.
> Aả hoàn trên dưới dạ rân,
> Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
> Trúc côn ra sức đập vào,
> Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng khinh.
> Xót thay đào lý một cành,
> Một phen mưa gió tan tành một phen!
> Hoa nô truyền dạy đổi tên,
> Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
> Ra vào theo lũ thanh y,
> Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
> Quản gia có một mụ nào,
> Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
> Khi chè chén khi thuốc thang,
> Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
> Dạy rằng: May rủi đã đành,
> Liễu bồ mình giữ lấy mình cho haỵ
> Cũng là oan nghiệp chi đây,
> Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
> ¥ở đây tai vách mạch rừng,
> Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
> Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
> Con ong cái kiến kêu gì được oan!
> Nàng càng giọt ngọc như chan,
> Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây:
> Phong trần kiếp chịu đã đầy,
> Lầm than lại có thứ này bằng hai.
> Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
> Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
> Đã đành túc trái tiền oan,
> Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!
> Những là nương náu qua thì,
> Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
> Mẹ con trò chuyện lân la,
> Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
> Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
> Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
> Lĩnh lời nàng mới theo sang,
> Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!
> Sớm khuya khăn mặt lược đầu,
> Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
> Phải đêm êm ả chiều trời,
> Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngàỵ
> Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
> Nỉ non thánh thót dễ say lòng người!
> Tiểu thư xem cũng thương tài,
> Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
> Cửa người đày đọa chút thân,
> Sớm năn nỉ bóng đêm ân hận lòng.
> Lâmtruy chút nghĩa đèo bòng,
> Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau!
> Bốn phương mây trắng một màu,
> Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
> Lần lần tháng trọn ngày qua,
> Nỗi gần nào biết đường xa thế nàỵ
> Lâmtruy từ thu ở uyên bay,
> Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
> Mày ai trăng mới in ngần,
> Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa!
> Sen tàn cúc lại nở hoa,
> Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
> Tìm đâu cho thấy cố nhân?
> Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
> Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
> Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
> Tiểu thư đón cửa giã giề.
> Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
> Nhà hương cao cuốn bức là,
> Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
> Bước ra một bước một dừng,
> Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
> Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
> Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
> Bây giờ tình mới tỏ tình,
> Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!
> Chước đâu có chước lạ đời,
> Người đâu mà lại có người tinh ma!
> Rõ ràng thật lứa đôi ta,
> Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
> Bề ngoài thơn thớt nói cười,
> Mà trong nham hiểm giết người không dao.
> Bây giờ đất thấp trời cao,
> ¡n làm sao nói làm sao bây giờ?
> Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
> Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
> Sợ uy dám chẳng vâng lời,
> Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
> Sinh đà phách lạc hồn xiêu:
> Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
> Nhân làm sao đến thế này?
> Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
> Sợ quen dám hở ra lời,
> Khôn ngăn giọt nước sụt sùi nhỏ sa.
> Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
> Mới về có việc chi mà động dong?
> Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
> Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên!
> Khen rằng: Hiếu tử đã nên,
> Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.
> Vợ chồng chén tạc chén thù,
> Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi,
> Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
> Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận taỵ
> Sinh càng như dại như ngây,
> Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
> Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
> Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
> Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
> Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
> Sinh càng nát ruột tan hồn,
> Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngaỵ
> Tiểu thư cười nói tỉnh say,
> Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
> Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
> Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!
> Nàng đà tán hoán tê mê
> Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
> Bốn dây như khóc như than,
> Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
> Cũng trong một tiếng tơ đồng,
> Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
> Giọt châu lã chã khôn cầm,
> Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
> Tiểu thư lại thét lấy nàng:
> Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi!
> Sao chẳng biết ý tứ gì?
> Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
> Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
> Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
> Giọt rồng canh đã điểm ba,
> Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
> Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
> Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!
> Sinh thì gan héo ruột đầy,
> Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
> Người vào chung gối loan phòng,
> Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.
> Bây giờ mới rõ tăm hơi,
> Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
> Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
> Ai ra đường nấy ai nhìn được ai!
> Bây giờ một vực một trời,
> Hết điều khinh trọng hết lời thị phi!
> Nhẹ như bấc nặng như chì,
> Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên?
> Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
> Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
> Một mình âm ỷ đêm chầy,
> Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
> Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
> Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
> Lựa lời nàng mới thưa qua:
> Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
> Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
> Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
> Sinh đà rát ruột như bào,
> Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
> Những e lại lụy đến nàng,
> Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
> Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
> Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
> Diện tiền trình với tiểu thư,
> Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
> Liền tay trao lại Thúc Sinh,
> Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
> Ví chăng có số giàu sang,
> Giá mà dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
> Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
> Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
> Sinh rằng: Thật có như lời,
> Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
> Nghìn xưa âu cũng thế này,
> Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
> Tiểu thư rằng: Yý trong tờ,
> Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không.
> Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
> Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
> Sẵn Quan âm các vườn ta,
> Có cây trăm thước có hoa bốn mùa.
> Có cổ thụ có sơn hồ,
> Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
> Tâng tâng trời mới bình minh,
> Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lễ thường.
> Đưa nàng đến trước Phật đường,
> Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia.
> Áo xanh đổi lấy cà sa,
> Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
> Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
> Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà.
> Nàng từ lánh gót vườn hoa,
> Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng.
> Nhân duyên đâu lại còn mong,
> Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
> Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
> Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương.
> Cho hay giọt nước cành dương,
> Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
> Nâu sồng từ trở màu thiền,
> Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
> Quan phòng then nhặt lưới mau,
> Nói lời trước mặt rơi châu vắng người.
> Gác kinh viện sách đôi nơi,
> Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
> Những là ngậm thở nuốt than,
> Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
> Thừa cơ sinh mới lẻn ra,
> Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
> Sụt sùi giở nỗi đoạn trường,
> Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh:
> Đã cam chịu bạc với tình,
> Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
> Thấp cơ thua trí đàn bà,
> Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
> Vì ta cho lụy đến người,
> Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh.
> Quản chi lên thác xuống ghềnh,
> Cũng toan sống thác với tình cho xong.
> Tông đường chút chửa cam lòng,
> Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
> Thẹn mình đá nát vàng phai,
> Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
> Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,
> Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
> Chút thân quằn quại vũng lầy,
> Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
> Cũng liều một giọt mưa rào,
> Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
> Xót vì cầm đã bén dây,
> Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
> Liệu bài mở cửa cho ra,
> ấy là tình nặng ấy là ân sâu
> Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
> Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
> Nữa khi giông tố phũ phàng,
> Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đâỵ
> Liệu mà xa chạy cao bay,
> Aái ân ta có ngần này mà thôi!
> Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
> Biết bao giờ lại nối lời nước non?
> Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
> Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!
> Cùng nhau kể lể sau xưa,
> Nói rồi lại nói lời chưa hết lời.
> Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
> Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
> Nhận ngừng nuốt tủi đứng ra,
> Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
> Cười cười nói nói ngọt ngào,
> Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
> Dối quanh sinh mới liệu lời:
> Tìm hoa quá bước xem người viết kinh.
> Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
> So vào với thiếp Lanđình nào thua!
> Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
> Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
> Thiền trà cạn nước hồng mai,
> Thong dong nối gót như trai cùng về.
> Nàng càng e lệ ủ ê,
> Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.
> Hoa rằng: Bà đến đã lâu,
> Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ.
> Rành rành kẽ tóc chân tơ,
> Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
> Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
> Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.
> Ngăn tôi đứng lại một bên,
> Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
> Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
> Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
> ấy mới gan ấy mới tài,
> Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
> Người đâu sâu sắc nước đời,
> Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
> Thực tang bắt được dường này,
> Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
> Thế mà im chẳng đãi đằng,
> Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng.
> Giận dầu ra dạ thế thường,
> Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu!
> Thân ta ta phải lo âu,
> Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn nàỵ
> Ví chăng chắp cánh cao bay,
> Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
> Phận bèo bao quản nước sa,
> Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
> Chỉn e quê khách một mình,
> Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
> Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
> Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
> Bên mình giắt để hộ thân,
> Lần nghe canh đã một phần trống ba.
> Cất mình qua ngọn tường hoạ
> Lần đường theo bóng trăng tà về tâỵ
> Mịt mù dặm cát đồi cây,
> Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
> Canh khuya thân gái dặm trường,
> Phần e đường sá phần thương dãi dầu!
> Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
> Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
> Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
> Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
> Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
> Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong.
> Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
> Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
> Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
> Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
> Tiểu thiền quê ở Bắc kinh,
> Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu.
> Bản sư rồi cũng đến sau,
> Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
> Rày vâng diện hiến rành rành,
> Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra,
> Xem qua sư mới dạy qua:
> Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
> Chỉn e đường sá một mình,
> ¥ở đây chờ đợi sư huynh ít ngàỵ
> Gởi thân được chốn am mây,
> Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
> Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
> Hương đèn việc trước trai phòng quen taỵ
> Sớm khuya lá bối phiến mây,
> Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chầy nện sương.
> Thấy nàng thông tuệ khác thường,
> Sư càng nể mặt nàng càng vững chân.
> Cửa thiền vừa cữ cuối xuân,
> Bóng hoa đầy đất vẻ ngân vang trời.
> Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
> Có người đàn việt lân chơi cửa già.
> Giở đồ chuông khánh xem qua,
> Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
> Giác Duyên thực ý lo lường,
> Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
> Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
> Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
> Bây giờ sự đã dường này,
> Phận hèn dù rủi dù may tại người.
> Giác Duyên nghe nói rụng rời,
> Nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong.
> Rỉ tai mới kể sự lòng:
> ¥ở đây cửa Phật là không hẹp gì.
> E chăng những sự bất kỳ,
> Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
> Lánh xa trước liệu tìm đường,
> Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê.
> Có nhà họ Bạc bên kia,
> Am mây quen lối đi về dầu hương.
> Nhắn sang dặn hết mọi đường,
> Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
> Những mừng được chốn an thân,
> Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
> Nào ngờ cùng tổ bợm già,
> Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
> Thấy nàng mặn phấn tươi son,
> Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
> Hư không đặt để nên lời,
> Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
> Mụ càng xui giục cho nên,
> Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
> Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
> Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa.
> Khéo oan gia của phá gia,
> Còn ai dám chứa vào nhà nữa đâỵ
> Kip toan kiếm chốn xe dây,
> Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
> Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
> Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
> Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
> Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai.
> Cửa hàng buôn bán châu Thai,
> Thật thà có một đơn sai chẳng hề.
> Thế nào nàng cũng phải nghe,
> Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
> Bấy giờ ai lại biết ai,
> Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
> Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
> Trái trời nẻo trước lụy mình đến sau.
> Nàng càng mặt ủ mày chau,
> Càng nghe mụ nói càng đau như dần.
> Nghĩ mình túng đất sẩy chân,
> Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
> Thiếp như con én lạc đàn,
> Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
> Cùng đường dù tính chữ tòng,
> Biết người biết mặt biết lòng làm sao?
> Nữa khi muôn một thế nào,
> Bán mình buôn sói chắc vào lưng đâu?
> Dù ai lòng có sở cầu,
> Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
> Chứng minh có đất có trời,
> Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
> Được lời mụ mới ra đi,
> Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
> Một nhà dọn dẹp linh đình,
> Quét sân đặt trác rửa bình thắp nhang.
> Bạc sinh quỳ xuống vội vàng,
> Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ công.
> Trước sân lòng đã giãi lòng,
> Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
> Thành thân mới rước xuống thuyền,
> Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai.
> Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
> Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngàỵ
> Cũng nhà hành viện xưa nay,
> Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người.
> Xem người định giá vừa rồi,
> Mối hàng một đã ra mười thì buông.
> Mượn người thuê kiệu rước nàng,
> Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa!
> Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
> Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
> Đưa nàng vào lạy gia đường,
> Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh!
> Thoắt trông nàng đã biết tình,
> Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
> Chém cha cái số hoa đào,
> Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
> Nghĩ đời mà ngán cho đời,
> Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
> Tiếc thay nước đã đánh phèn,
> Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
> Hồng quân với khách hồng quần,
> Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.
> Lỡ từ lạc bước bước ra,
> Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
> Đầu xanh đã tội tình gì?
> Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi.
> Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
> Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
> Lần thâu gió mát trăng thanh,
> Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.
> Râu hùm hàm én mày ngài,
> Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
> Đường đường một đấng anh hào,
> Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
> Đội trời đạp đất ở đời,
> Họ Từ tên Hải vốn người Việt đông.
> Giang hồ quen thú vẫy vùng,
> Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
> Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
> Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
> Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
> Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
> Từ rằng: Tâm phúc tương cờ,
> Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
> Bấy lâu nghe tiếng má đào,
> Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
> Một đời được mấy anh hùng,
> Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
> Nàng rằng: Người dạy quá lời,
> Thân này còn dám xem ai làm thường!
> Chút riêng chọn đá thử vàng,
> Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
> Còn như vào trước ra sau,
> Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!
> Từ rằng: Lời nói hữu tình,
> Khiến người lại nhớ câu Bình nguyên quân.
> Lại đây xem lại cho gần,
> Phỏng tin được một vài phần hay không?
> Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
> Tấndương được thấy mây rồng có phen.
> Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
> Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
> Nghe lời vừa ý gật đầu,
> Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?
> Khen cho con mắt tinh đời,
> Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
> Một lời đã biết đến ta,
> Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
> Hai bên ý hợp tâm đầu,
> Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.
> Ngỏ lời nói với băng nhân,
> Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
> Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
> Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.
> Trai anh hùng gái thuyền quyên,
> Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
> Nửa năm hương lửa đương nồng,
> Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương,
> Trông vời trời bể mênh mang,
> Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
> Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
> Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
> Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
> Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
> Bao giờ mười vạn tinh binh,
> Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
> Làm cho rõ mặt phi tường,
> Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
> Bằng nay bốn bể không nhà,
> Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
> Đành lòng chờ đó ít lâu,
> Chầy chăng là một năm sau vội gì!
> Quyết lời dứt áo ra đi,
> Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
> Nàng từ chiếc bóng song mai,
> Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mâỵ
> Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
> Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân.
> Đoái trông muôn dặm tử phần,
> Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
> Xót thay huyên nỗi xuân già,
> Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
> Chốc đà mười mấy năm trời.
> Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
> Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
> Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng.
> Duyên em dù nối chỉ hồng,
> May ra khi đã tay bồng tay mang.
> Tấc lòng cố quốc tha hương,
> Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
> Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
> Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm,
> Đêm ngày luống những âm thầm,
> Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.
> Ngất trời sát khí mơ màng,
> Đầy sông kình ngạc chật đường giáp binh.
> Người quen thuộc kẻ chung quanh,
> Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
> Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
> Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!
> Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ,
> Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiến la.
> Giáp binh kéo đến quanh nhà,
> Đồng thanh cùng gởi: Nào là phu nhân?
> Hai bên mười vị tướng quân,
> Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu.
> Cung nga thể nữ nối sau,
> Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quỵ
> Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
> Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng.
> Dựng cờ nổi trống lên đường,
> Trúc tơ nổi trước kiệu vàng kéo sau.
> Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,
> Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
> Kéo cờ lũy phát súng thành,
> Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
> Rỡ mình là vẻ cân đai,
> Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
> Cười rằng: Cá nước duyên ưa!
> Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
> Anh hùng mới biết anh hùng,
> Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
> Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
> Cũng may dây cát được nhờ bóng cây!
> Đến bây giờ mới thấy đây,
> Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
> Cùng nhau trông mặt cả cười,
> Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
> Tiệc bày thưởng tướng khao binh,
> Thì thùng trống trận rập rình nhạc quân.
> Vinh hoa bõ lúc phong trần,
> Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngàỵ
> Trong quân có lúc vui vầy,
> Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
> Khi Vô tích khi Lâm truy,
> Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương.
> Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
> Chút còn ân oán đôi đường chưa xong.
> Từ công nghe nói thủy chung,
> Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
> Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
> Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
> Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
> Đạo ra Vô tích đạo vào Lâm truỵ
> Mấy người phụ bạc xưa kia,
> Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
> Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
> Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
> Mụ quản gia vãi Giác Duyên,
> Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
> Thệ sư kể hết mọi lời,
> Lòng lòng cũng giận người người chấp uỵ
> Đạo trời báo phục chỉn ghê,
> Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.
> Quân trung gươm lớn giáo dài,
> Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi.
> Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
> Vác đòng chật đất tinh kỳ rợp sân.
> Trướng hùm mở giữa trung quân,
> Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.
> Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi,
> Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
> Từ rằng: ¢n oán hai bên,
> Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
> Nàng rằng: Muôn cậy uy linh,
> Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
> Báo ân rồi sẽ trả thù.
> Từ rằng: Việc ấy để cho mặc nàng.
> Cho gươm mời đến Thúc lang,
> Mặt như chàm đổ mình dường giẻ run.
> Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non,
> Lâmtruy người cũ chàng còn nhớ không?
> Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
> Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
> Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
> Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
> Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
> Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
> Kiến bò miệng chén chưa lâu,
> Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!
> Thúc sinh trông mặt bấy giờ,
> Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
> Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
> Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
> Mụ già sư trưởng thứ hai.
> Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên.
> Dắt tay mở mặt cho nhìn:
> Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi!
> Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,
> Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
> Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
> Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!
> Hai người trông mặt tần ngần,
> Nửa phần khiếp sợ nửa phần mừng vui.
> Nàng rằng: Xin hãy rốn ngồi,
> Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù!
> Kíp truyền chư tướng hiến phù,
> Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
> Dưới cờ gươm, tuốt nắp ra,
> Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
> Thoắt trông nàng đã chào thưa,
> Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
> Đàn bà dễ có mấy tay,
> Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
> Dễ dàng là thói hồng nhan,
> Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!
> Hoạn thư hồn lạc phách xiêu,
> Khấu đầu dưới trướng lựa điều kêu ca.
> Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
> Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
> Nghĩ cho khi các viết kinh,
> Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
> Lòng riêng riêng những kính yêu,
> Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
> Trót lòng gây việc chông gai,
> Còn nhờ lượng bể thương bài cho chăng!
> Khen cho: Thật đã nên rằng,
> Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
> Tha ra thì cũng may đời,
> Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
> Đã lòng tri quá thì nên,
> Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngaỵ
> Tạ lòng lạy trước sân mây,
> Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào.
> Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
> Hại nhân nhân hại sự nào tại ta!
> Trước là Bạc Hạnh Bạc bà,
> Bên là ¦ng Khuyển bên là Sở Khanh,
> Tú bà với Mã Giám sinh,
> Các bên tội ấy đáng tình còn sao?
> Lệnh quân truyền xuống nội đao,
> Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
> Máu rơi thịt nát tan tành,
> Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
> Cho hay muôn sự tại trời,
> Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
> Mấy người bạc ác tinh ma,
> Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
> Ba quân đông mặt pháp trường,
> Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coị
> Việc nàng báo phục vừa rồi,
> Giác Duyên vội đã gởi lời từ quy.
> Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,
> Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
> Rồi đây bèo hợp mây tan,
> Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
> Sư rằng: Cũng chẳng mấy lâu,
> Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
> Nhớ ngày hành cước phương xa,
> Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
> Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
> Năm nay là một nữa thì năm năm.
> Mới hay tiền định chẳng lầm,
> Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
> Còn nhiều ân ái với nhau,
> Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
> Nàng rằng: Tiền định tiên tri,
> Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
> Họa bao giờ có gặp người,
> Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.
> Giác Duyên vâng dặn ân cần,
> Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
> Nàng từ ân oán rạch ròi,
> Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
> Tạ ân lạy trước Từ công:
> Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
> Trộm nhờ sấm sét ra tay,
> Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
> Chạm xương chép dạ xiết chi,
> Dễ đem gan óc đền ghì trời mây!
> Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,
> Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
> Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
> Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
> Huống chi việc cũng việc nhà,
> Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
> Xót nàng còn chút song thân,
> Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
> Sao cho muôn dặm một nhà,
> Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
> Vội truyền sửa tiệc quân trung,
> Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
> Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
> Bình uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
> Triều đình riêng một góc trời,
> Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
> Đòi cơn gió quét mưa sa,
> Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
> Phong trần mài một lưỡi gươm,
> Những loài giá áo túi cơm sá gì!
> Nghênh ngang một cõi biên thùy,
> Kém gì cô quả kém gì bá vương!
> Trước cờ ai dám tranh cường,
> Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
> Có quan tổng đốc trọng thần,
> Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
> Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
> Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.
> Biết Từ là đấng anh hùng,
> Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
> Đóng quân làm chước chiêu an,
> Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
> Lại riêng một lễ với nàng,
> Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
> Tin vào gởi trước trung quân,
> Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
> Một tay gây dựng cơ đồ,
> Bấy lâu để Sở sông Ngô tung hoành!
> Bó thân về với triều đình,
> Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
> Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
> Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
> Sao bằng riêng một biên thùy,
> Sức này đã dễ làm gì được nhau?
> Chọc trời quấy nước mặc dầu,
> Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
> Nàng thì thật dạ tin người,
> Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
> Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
> Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
> Bằng nay chịu tiếng vương thần,
> Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
> Công tư vẹn cả hai bề,
> Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
> Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
> Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
> Trên vì nước dưới vì nhà,
> Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
> Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
> E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa.
> Nhân khi bàn bạc gần xa,
> Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
> Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
> Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
> Bình thành công đức bấy lâu,
> Ai ai cũng đội trên đầu biết bao.
> Ngẫm từ dấy việc binh đao,
> Đống xương Vôđịnh đã cao bằng đầu.
> Làm chi để tiếng về sau,
> Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
> Sao bằng lộc trọng quyền cao,
> Công danh ai dứt lối nào cho qua?
> Nghe lời nàng nói mặn mà,
> Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
> Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
> Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
> Tin lời thành hạ yêu minh,
> Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
> Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
> Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
> Hồ công quyết kế thừa cơ,
> Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
> Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
> Lễ nghi dàn trước vác đòng phục sau.
> Từ công hờ hững biết đâu,
> Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
> Hồ công ám hiệu trận tiền,
> Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
> Đang khi bất ý chẳng ngờ,
> Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
> Tử sinh liều giữa trận tiền,
> Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
> Khí thiêng khi đã về thần,
> Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
> Trơ như đá vững như đồng,
> Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
> Quan quân truy sát đuổi dài.
> Uù ù sát khí ngất trời ai đang.
> Trong hào ngoài lũy tan hoang,
> Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
> Trong vòng tên đá bời bời,
> Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
> Khóc rằng: Trí dũng có thừa,
> Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
> Mặt nào trông thấy nhau đây?
> Thà liều sống thác một ngày với nhau!
> Dòng thu như giội cơn sầu,
> Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
> Lạ thay oan khí tương triền!
> Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
> Quan quân kẻ lại người qua,
> Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
> Đem vào đến trước trung quân,
> Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
> Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
> Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
> Đã hay thành toán miếu đường,
> Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
> Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
> Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
> Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
> Ngập ngừng mới gởi thấp cao sự lòng.
> Rằng: Từ là đấng anh hùng,
> Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
> Tin tôi nên quá nghe lời,
> Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
> Ngỡ là phu quý phụ vinh,
> Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
> Năm năm trời bể ngang tàng,
> Dấn mình đi bỏ chiến trường như không.
> Khéo khuyên để lấy làm công,
> Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
> Xét mình công ít tội nhiều,
> Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
> Xin cho tiện thổ một doi,
> Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
> Hồ công nghe nói thương tình,
> Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
> Trong quân mở tiệc hạ công,
> Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
> Bắt nàng thị yến dưới màn,
> Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
> Một cung gió thảm mưa sầu,
> Bôn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
> Ve ngâm vượn hót nào tày,
> Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
> Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
> Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
> Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
> Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
> Cung cầm lựa những ngày xưa,
> Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
> Nghe càng đắm ngắm càng say,
> Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
> Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,
> Dây loan xin nối cầm lành cho ai.
> Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
> Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
> Còn chi nữa cánh hoa tàn,
> Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
> Rộng thương còn mảnh hồng quần,
> Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
> Hạ công chén đã quá say,
> Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
> Nghĩ mình phương diện quốc gia,
> Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
> Phải tuồng trăng gió hay sao,
> Sự này biết tính thế nào được đây?
> Công nha vừa buổi sáng ngày,
> Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
> Lệnh quan ai dám cãi lời,
> Eép tình mới gán cho người thổ quan.
> ¤ng tơ thực nhé đa đoan!
> Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
> Kiệu hoa áp thắng xuống thuyền,
> Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
> Nàng càng ủ liễu phai đào,
> Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
> Đành thân cát lấp sóng vùi,
> Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh!
> Chân trời mặt bể lênh đênh,
> Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào?
> Duyên đâu ai dứt tơ đào,
> Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
> Thân sao thân đến thế này?
> Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
> Đã không biết sống là vui,
> Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
> Một mình cay đắng trăm đường,
> Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
> Mảnh trăng đã gác non đoài,
> Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
> Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
> Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường.
> Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
> Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
> Đạm Tiên nàng nhé có hay!
> Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
> Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
> Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.
> Cửa bồng vội mở rèm châu,
> Trời cao sông rộng một màu bao la.
> Rằng: Từ công hậu đãi ta,
> Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
> Giết chồng mà lại lấy chồng,
> Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
> Thôi thì một thác cho rồi,
> Tấm lòng phó mặc trên đời dưới sông!
> Trông vời con nước mênh mông,
> Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang.
> Thổ quan theo vớt vội vàng,
> Thì đà đắm ngọc chìm hương hương mất rồi!
> Thương thay cũng một kiếp người,
> Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
> Những là oan khổ lưu ly,
> Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
> Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
> Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
>
> Đời người đến thế thì thôi,
> Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay.
> Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
> Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
> Giác Duyên từ tiết giã màng,
> Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
> Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
> Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
> Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
> Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
> Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
> Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
> Có trời mà cũng tại ta,
> Tu là cỗi phúc tình là dây oan.
> Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
> Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
> Lại mang lấy một chữ tình,
> Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
> Vậy nên những chốn thong dong,
> ¥ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
> Ma đưa lối quỷ đem đường,
> Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
> Hết nạn ấy đến nạn kia,
> Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
> Trong vòng giáo dựng gươm trần,
> Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
> Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
> Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
> Oan kia theo mãi với tình,
> Một mình mình biết một mình mình haỵ
> Làm cho sống đọa thác đầy,
> Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
> Giác Duyên nghe nói rụng rời:
> Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
> Sư rằng: Song chẳng hề chi,
> Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
> Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
> Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
> Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
> Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
> Hại một người cứu muôn người,
> Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
> Thửa công đức ấy ai bằng?
> Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
> Khi nên trời cũng chiều người,
> Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
> Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
> Tiềnđường thả một bè lau rước người.
> Trước sau cho vẹn một lời,
> Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
> Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
> Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
> Đánh tranh chụm nóc thảm đường,
> Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
> Thuê năm ngư phủ hai người,
> Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
> Một lòng chẳng quản mấy công,
> Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
> Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
> Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
> Ngư ông kéo lưới vớt người,
> Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
> Trên mui lướt mướt áo là,
> Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
> Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
> Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
> Mơ màng phách quế hồn mai,
> Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
> Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
> Mất công mười mấy năm thừa ở đâỵ
> Chị sao phận mỏng phúc dày,
> Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
> Tâm thành đã thấu đến trời,
> Bán mình là hiếu cứu người là thân.
> Một niềm vì nước vì dân,
> ¢m công cất một đồng cân đã già!
> Đoạn trường sổ rút tên ra,
> Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
> Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
> Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
> Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
> Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
> Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
> Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
> Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
> Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
> Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
> Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
> Một nhà chung chạ sớm trưa,
> Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
> Bốn bề bát ngát mênh mông,
> Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
> Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
> Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
> Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
> Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
> Từ ngày muôn dặm phù tang,
> Nửa năm ở đất Liêudương lại nhà.
> Vội sang vườn Thúy dò la,
> Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
> Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
> Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
> Trước sau nào thấy bóng người,
> Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
> Xập xè én liệng lầu không,
> Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giàỵ
> Cuối tường gai góc mọc đầy,
> Đi về này những lối này năm xưa.
> Chung quanh lặng ngắt như tờ,
> Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
> Láng giềng có kẻ sang chơi,
> Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
> Hỏi ông ông mắc tụng đình,
> Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
> Hỏi nhà nhà đã dời xa,
> Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
> Đều là sa sút khó khăn,
> May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
> Điều đâu sét đánh lưng trời,
> Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
> Vội han đi trú nơi nao,
> Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
> Nhà tranh vách đất tả tơi,
> Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
> Một sân đất cỏ dầm mưa,
> Càng cao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
> Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
> Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
> Dắt tay vội rước vào nhà,
> Mái sau viên ngoại ông bà ra ngaỵ
> Khóc than kể hết niềm tây:
> Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
> Kiều nhi phận mỏng như tờ,
> Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
> Gặp cơn gia biến lạ dường,
> Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
> Dùng dằng khi bước chân ra,
> Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
> Trót lời nặng với lang quân,
> Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
> Gọi là trả chút nghĩa người,
> Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
> Kiếp này duyên đã phụ duyên,
> Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
> Mấy lời ký chú đinh ninh,
> Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
> Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
> Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
> ¤ng bà càng nói càng đau,
> Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
> Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
> Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
> Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
> Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
> Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
> Nhận ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
> Bây giờ ván đã đóng thuyền,
> Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
> Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
> Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
> Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
> Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
> Thề xưa giở đến kim hoàn,
> Của xưa lại giở đến đàn với hương.
> Sinh càng trông thấy càng thương
> Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
> Rằng: Tôi trót quá chân ra,
> Để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.
> Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
> Những điều vàng đá phải điều nói không!
> Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
> Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
> Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
> Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
> Nỗi thương nói chẳng hết lời,
> Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
> Vội về sửa chốn vườn hoa,
> Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
> Thần hôn chăm chút lễ thường,
> Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
> Đinh ninh mài lệ chép thơ,
> Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
> Biết bao công mướn của thuê,
> Lâmthanh mấy độ đi về dặm khơi.
> Người một nơi hỏi một nơi,
> Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
> Sinh càng thảm thiết khát khao,
> Như nung gan sắt như bào lòng son.
> Ruột tằm ngày một héo don,
> Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
> Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê,
> Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
> Xuân huyên lo sợ biết bao,
> Quá ra khi đến thế nào mà hay!
> Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
> Duyên Vân sớm đa se dây cho chàng.
> Người yểu điệu kẻ văn chương,
> Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì.
> Tuy rằng vui chữ vu quy,
> Vui này đã cất sầu kia được nào!
> Khi ăn ở lúc ra vào,
> Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
> Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
> Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
> Có khi vắng vẻ thư phòng,
> Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
> Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
> Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
> Dường như bên nóc bên thềm,
> Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
> Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
> Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đâỵ
> Những là phiền muộn đêm ngày,
> Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
> Chế hoa gặp hội trường văn.
> Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngàỵ
> Cửa trời rộng mở đường mây,
> Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
> Chàng Vương nhớ đến xa gần,
> Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
> Tình xưa ân trả nghĩa đền,
> Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
> Kim từ nhẹ bước thanh vân,
> Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
> ấy ai dặn ngọc thề vàng,
> Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?
> Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
> Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
> Vâng ra ngoại nhậm Lâmtruy,
> Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn.
> Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
> Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn chiêm dao.
> Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
> Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
> Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
> Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi.
> Nọ Lâm thanh với Lâm truy,
> Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
> Trong cơ thanh khí tương tầm,
> ¥ở đây hoặc có giai âm chăng là?
> Thăng đường chàng mới hỏi tra,
> Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
> Sự này đã ngoại mười niên,
> Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
> Tú bà cùng Mã Giám sinh,
> Đi mua người ở Bắckinh đưa về.
> Thúy Kiều tài sắc ai bì,
> Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
> Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
> Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
> Phong trần chịu đã ê chề,
> Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
> Phải tay vợ cả phũ phàng,
> Bắt về Vôtích toan đường bẻ hoa.
> Bực mình nàng phải trốn ra,
> Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
> Thoắt buôn về thoắt bán đi,
> Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
> Bỗng đâu lại gặp một người,
> Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
> Trong tay mười vạn tinh binh,
> Kéo về đóng chật một thành Lâm truy.
> Tóc tơ các tích mọi khi,
> Oán thì trả oán ân thì trả ân.
> Đã nên có nghĩa có nhân,
> Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
> Chưa tường được họ được tên,
> Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
> Nghe lời Đô nói rõ ràng,
> Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
> Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
> Chồng con đâu tá tính danh là gì?
> Thúc rằng: Gặp lúc lưu ly,
> Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
> Đại vương tên Hải họ Từ,
> Đánh quen trăm trận sức dư muôn người.
> Gặp nàng khi ở châu Thai,
> Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
> Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
> Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
> Đại quân đồn đóng cõi đông,
> Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.
> Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
> Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
> Xót thay chiếc lá bơ vơ,
> Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
> Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
> Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan!
> Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
> Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
> Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
> Lửa hương biết có kiếp này nữa thôỉ
> Bình bồng còn chút xa xôi,
> Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
> Rắp mong treo ấn từ quan,
> Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
> Dấn mình trong áng can qua,
> Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
> Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
> Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
> Những là nấn ná đợi tin,
> Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dời?
> Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
> Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
> Kim thì cải nhậm Nam bình,
> Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú dương.
> Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
> Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
> Xảy nghe thế giặc đã tan,
> Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiết giang.
> Được tin Kim mới rủ Vương,
> Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
> Hàngchâu đến đó bây giờ,
> Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
> Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
> Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
> Nàng Kiều công cả chẳng đền,
> Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
> Nàng đã gieo ngọc trầm châu,
> Sông Tiềnđường đó ấy mồ hồng nhau!
> Thương ôi! không hợp mà tan,
> Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
> Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
> Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
> Ngọn triều non bạc trùng trùng,
> Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
> Tình thâm bể thảm lạ điều,
> Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
> Cơ duyên đâu bông lạ sau,
> Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
> Trông lên linh vị chữ bài,
> Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
> Với nàng thân thích gần xa,
> Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
> Nghe tin nhơ nhác rụng rời,
> Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
> Này chồng này mẹ này cha,
> Này là em ruột này là em dâu.
> Thật tin nghe đã bấy lâu,
> Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!
> Sư rằng: Nhân quả với nàng,
> Lâmtruy buổi trước Tiềnđường buổi sau.
> Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
> Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
> Cùng nhau nương cửa bồ đề,
> Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
> Phật tiền ngày bạc lân la,
> Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
> Nghe tin nở mặt nở mày,
> Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
> Từ phen chiếc lá lìa rừng,
> Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
> Rõ ràng hoa rụng hương bay,
> Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
> Minh dương đôi ngả chắc rồi,
> Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
> Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
> Bộ hành một lũ theo liền một khi.
> Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
> Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
> Quanh co theo dải giang tân,
> Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
> Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
> Phòng trong vội dạo sen vàng bước ra.
> Trông xem đủ mặt một nhà:
> Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
> Hai em phương trưởng hòa hai,
> Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
> Tưởng bây giờ là bao giờ,
> Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
> Giọt châu thánh thót quẹn bào,
> Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
> Huyên già dưới gối gieo mình,
> Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi:
> Từ con lưu lạc quê người,
> Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
> Tính rằng sông nước cát lầm,
> Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
> Ông bà trông mặt cầm tay,
> Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
> Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
> Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
> Nỗi mừng biết lấy chi cân?
> Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
> Hai em hỏi trước han sau,
> Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
> Quây nhau lạy trước Phật đài,
> Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
> Kiệu hoa giục giã tức thì,
> Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
> Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
> Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
> Tính rằng mặt nước chân mây,
> Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
> Được rày tái thế tương phùng.
> Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
> Đã đem mình bỏ am mây,
> Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.
> Mùi thiền đã bén muối dưa,
> Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
> Sự đời đã tắt lửa lòng,
> Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
> Dở dang nào có hay gì,
> Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
> Trùng sinh ân nặng bể trời,
> Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
> ¤ng rằng: Bỉ thử nhất thì,
> Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
> Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
> Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
> Độ sinh nhờ đức cao dày,
> Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
> Nghe lời nàng phải chiều lòng,
> Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
> Một nhà về đến quan nha,
> Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
> Tàng tàng chén cúc dở say,
> Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
> Rằng: Trong tác hợp cơ trời.
> Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
> Gặp cơn bình địa ba đào,
> Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
> Cũng là phận cải duyên kim,
> Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
> Những là rày ước mai ao,
> Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
> Bây giờ gương vỡ lại lành,
> Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
> Còn duyên may lại còn người,
> Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
> Quả mai ba bảy dương vừa,
> Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
> Dứt lời nàng vội gạt đi:
> Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
> Một lời tuy có ước xưa,
> Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
> Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
> Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
> Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
> Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
> Một lời đã trót thâm giao,
> Dưới dày có đất trên cao có trời!
> Dẫu rằng vật đổi sao dời,
> Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
> Duyên kia có phụ chi tình,
> Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
> Nàng rằng: Gia thất duyên hài,
> Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
> Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
> Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.
> Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
> Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
> Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
> Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
> Bấy chầy gió táp mưa sa.
> Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
> Còn chi là cái hồng nhan,
> Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
> Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
> Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
> Đã hay chàng nặng vì tình,
> Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
> Từ rày khép cửa phòng thu
> Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
> Chàng dù nghĩ đến tình xa,
> Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
> Nói chi kết tóc xe tơ,
> Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
> Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
> Mà trong lẽ phải có người có ta!
> Xưa nay trong đạo đàn bà,
> Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
> Có khi biến có khi thường,
> Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
> Như nàng lấy hiếu làm trinh,
> Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
> Trời còn để có hôm nay,
> Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
> Hoa tàn mà lại thêm tươi,
> Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
> Có điều chi nữa mà ngờ,
> Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!
> Nghe chàng nói đã hết điều,
> Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
> Hết lời khôn lẽ chối lời,
> Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than.
> Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
> Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
> Cùng nhau giao bái một nhà,
> Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
> Động phòng dìu dặt chén mồi,
> Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
> Những từ sen ngó đào tơ,
> Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
> Tình duyên ấy hợp tan này,
> Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
> Canh khuya bức gấm rủ thao,
> Dưới đèn tỏ dạng má đào thêm xuân.
> Tình nhân lại gặp tình nhân,
> Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
> Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
> Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
> Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
> Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.
> Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
> Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
> Những như âu yếm vành ngoài,
> Còn toan mở mặt với người cho qua.
> Lại như những thói người ta,
> Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.
> Khéo là giở nhuốc bày trò,
> Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
> Người yêu ta xấu với người,
> Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
> Cửa nhà dù tính về sau,
> Thì còn em đó lọ cầu chị đây.
> Chữ trinh còn một chút này,
> Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
> Còn nhiều ân ái chan chan,
> Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
> Chàng rằng: Gắn bó một lời,
> Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
> Xót người lưu lạc bấy lâu,
> Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều!
> Thương nhau sinh tử đã liều,
> Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
> Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
> Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
> Gương trong chẳng chút bụi trần,
> Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
> Bấy lâu đáy bổ mò kim,
> Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
> Ai ngờ lại họp một nhà,
> Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
> Nghe lời sửa áo cài trâm,
> Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:
> Thân tàn gạn đục khơi trong,
> Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
> Mấy lời tâm phúc ruột rà,
> Tương tri đường ấy mới là tương tri!
> Chở che đùm bọc thiếu gì,
> Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
> Thoắt thôi tay lại cầm tay,
> Càng yêu vì nết càng say vì tình.
> Thêm nến giá nối hương bình,
> Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
> Tình xưa lai láng khôn hàn,
> Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
> Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
> Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
> ¡n năn thì sự đã rồi!
> Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
> Phim đàn dìu dặt tay tiên,
> Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
> Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
> ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
> Khúc đâu êm ái xuân tình,
> ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên,
> ấm sao hạt ngọc Lam điều mới đông!
> Lọt tai nghe suốt năm cung,
> Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
> Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
> Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
> Tẻ vui bởi tại lòng này,
> Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
> Nàng rằng: Vì chút nghề chơi,
> Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
> Một phen tri kỷ cùng nhau,
> Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.
> Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
> Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
> Tình riêng chàng lại nói sòng,
> Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
> Cho hay thục nữ chí cao,
> Phải người sớm mận tối đào như ai?
> Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
> Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
> Khi chén rượu khi cuộc cờ,
> Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
> Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
> Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
> Nhớ lời, lập một am mây,
> Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên.
> Đến nơi đóng cửa cài then,
> Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà,
> Sư đà hái thuốc phương xa,
> Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
> Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
> Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
> Một nhà phúc lộc gồm hai,
> Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần.
> Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
> Một cây cù mộc một sân quế hòe.
> Phong lưu phú quý ai bì,
> Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.
> Ngẫm hay muôn sự tại trời,
> Trời kia đã bắt làm người có thân.
> Bắt phong trần phải phong trần,
> Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
> Có đâu thiên vị người nào,
> Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
> Có tài mà cậy chi tài,
> Chữ tài liền với chữ tai một vần.
> Đã mang lấy nghiệp vào thân,
> Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
> Thiện căn ở tại lòng ta,
> Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
> Lời quê chắp nhặt dông dài,
> Mua vui cũng được một vài trống canh.
>