Giá và Phí
Gần ba thập kỷ trước, bài học đầu tiên mà tôi được học ở trường Y chính là thiên chức của người bác sĩ.
Các thầy dạy tôi rằng, bác sĩ là để cứu giúp người bệnh chứ không phải để kiếm tiền. Đó là thứ đạo đức cao quý, cao quý đến mức nó trở thành mô hình; tuy nhiên, tôi vẫn có những nhận thức rất rõ ràng về sự quay cuồng trong cuộc sống của từng bác sĩ.
Nghề y, hơn bất kì ngành nghề nào khác, bác sĩ đòi hỏi phải có tính khiêm nhường trong cuộc sống và chuyên nghiệp trong chuyên môn. Những năm đầu thập kỷ 90, khi tôi bắt đầu thực tập ở các bệnh viện, hầu hết bác sĩ phải làm việc quá sức, nhưng tiền lương nhận được chỉ khoảng 4 đến 6 đô la mỗi tháng. Năm 1991, lương khởi điểm bác sĩ hết tập sự khoảng 62.000 đồng, có thâm niên nhiều năm khoảng 100.000 đồng, trong khi tỉ giá 16.000 VND/USD.
Đời sống quá khó khăn, nên mỗi ngày đến bệnh viện tôi lại nhìn thấy có nhiều bệnh nhân phải bỏ tiền ra mua quà cho nhân viên y tế. Món quà phổ biến nhất thời đó là bao thuốc lá 555 hoặc chiếc khăn mùi xoa, họ biếu bác sĩ để được ưu tiên khám trước, biếu y tá để được quan tâm chăm sóc. Bao thuốc hay chiếc khăn mùi xoa sẽ được mang ngay ra cổng viện bán lại.
Mô hình của hệ thống y tế mang tư tưởng XHCN, tôi tạm gọi như thế, là mô hình đề cao khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe như là quyền cơ bản của công dân, nó tập trung cho cả những kỹ năng thăm khám đơn giản lẫn những cuộc phức tạp phẫu thuật nhất, nhưng lại hoàn toàn miễn phí và người bệnh được bao cấp thêm tiền ăn ngày 3 bữa.
Nhưng nguồn ngân sách chính phủ dành cho y tế dần cạn kiệt. Cả hệ thống y tế xuống cấp, thiết bị hỏng hóc, cơ sở hạ tầng xập xệ, những chiếc vòi không có nước chảy, bệnh viện không có tiền, hàng dài những bệnh nhân chờ đợi.
Tình trạng ấy kéo dài cho đến tận những năm đầu của thế kỉ 21. Thế giới trước đó cả mấy chục năm, ở các nước phát triển đã phổ biến máy siêu âm màu Doppler, máy X quang kĩ thuật số, máy chụp cắt lớp vi tính. Nhưng bác sĩ chúng tôi đến tận những năm 2000, khi khám bệnh vẫn chủ yếu bằng những kĩ năng nhìn, sờ, gõ, nghe.
Từ các bậc thầy giàu kinh nghiệm cho đến bác sĩ trẻ mới vào nghề như tôi, hầu hết những thăm khám lâm sàng "không cần" sự trợ giúp của công nghệ chẩn đoán mới nhất như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính; bởi đó là những thứ vô cùng xa xỉ và tốn kém. Tôi không thể quên những ca mổ diễn ra ngay cả khi thiếu điện nước. Nhiều hôm đang mổ mất điện, bác sĩ gây mê phải bóp bóng thay máy thở, đèn bão được thắp lên, y tá soi đèn pin vào phẫu trường giúp phẫu thuật viên thực hiện các kĩ thuật khó.
Y tế cần phải được "cởi trói". Và ngày 24/4/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 45 cho phép y tế thí điểm thu một phần viện phí. Việc thực hiện Quyết định số 45 bước đầu giúp các cơ sở khám chữa bệnh giảm bớt khó khăn về kinh phí.
Đến tháng 8 năm 1994, Chính phủ quy định, một phần số tiền viện phí người bệnh tham gia đóng, sẽ trích 85% mua thuốc thang, hóa chất, vật tư tiêu hao; còn lại 15% dùng để cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.
"Viện phí" là thuật ngữ được công nhận chính thức từ thời điểm này.
Giai đoạn tiếp theo của chính sách "cởi trói" y tế là thực hiện xã hội hóa. Năm 1999, Chính phủ đã cho phép các bệnh viện công thực hiện liên doanh liên kết với tư nhân để đầu tư trang thiết bị máy móc, mở ra các dịch vụ y tế rồi cùng khai thác.
Để đảm bảo sự minh bạch, tính cạnh tranh và tình huống lựa chọn cho 2 hệ thống đang cùng tồn tại song song đó là công và tư, Quốc hội đã ban hành Luật giá và Luật phí. Thuật ngữ "Viện phí" và "Giá dịch vụ y tế" đã có sự phân biệt bởi sự chi phối của hai luật này.
Nhưng điều quan trọng hơn cả so với sự phân biệt giữa "Phí" và "Giá", là hệ thống y tế đã trở nên chất lượng hơn rất nhiều lần, người bệnh đã nhận được những giá trị mà họ xứng đáng được nhận khi phải bỏ tiền ra; còn nhân viên y tế chúng tôi, đời sống cũng được cải thiện rõ rệt. So với trước đây khám cho 10 hay 100 bệnh nhân thì thu nhập vẫn như nhau, thì nay thì đã khác.
Nhìn lại chặng đường y tế chuyển đổi qua thời kì bao cấp, cho đến hôm nay thì chúng ta đang có một hệ thống chăm sóc sức khỏe hai tầng. Tầng thứ nhất, là cơ sở y tế sử dụng nguồn vốn ngân sách mà ở đó các bác sĩ tham gia nhiệm vụ khám chữa bệnh một cách tự nguyện cho những người dân bình thường và hưởng lương cơ bản. Tầng thứ hai, là y tế dịch vụ dành cho những bệnh nhân sẵn sàng chi trả tiền cho một dịch vụ và họ được nhận những giá trị chăm sóc thông qua chất lượng cao hơn, cơ sở hạ tầng tốt hơn, thiết bị mới hơn.
Sự phân định giữa "phí" và "giá" như thế không chỉ đơn thuần là vỏ bọc từ ngữ. Rộng hơn cách gọi, đây là sự phân định giữa quan niệm của nền kinh tế tập trung bao cấp và nền kinh tế thị trường; giữa ý niệm về tinh thần tự nguyện "phục vụ" của khu vực công và hoạt động mua-bán. Cho dù trong lĩnh vực nào, y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường,… việc phân định rạch ròi hai thứ này đều rất quan trọng.
Những bác sĩ chúng tôi, trải qua nhiều thời kỳ, vượt qua những khốn khó về vật chất, hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của việc phân biệt "phí" và "giá".
Nhưng tôi không bằng lòng với những thành tựu. Cá nhân tôi cho rằng, cách duy trì hệ thống y tế hai tầng trong bệnh viện đảm bảo cho người dân phẫu thuật tim hở không phải chịu cảnh nợ nần suốt đời, nhưng nó không thể tạo ra ngành công nghiệp sinh học, không thể có ngành công nghiệp dược phẩm, không thể những lĩnh vực y tế mũi nhọn đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Sự lẫn lộn công - tư trong một bệnh viện đã bắt đầu phát lộ rất nhiều những biến chứng. Đó chính là điều mà tôi băn khoăn, rằng tại sao nền y tế của chúng ta muốn ra biển lớn nhưng không tách riêng hẳn công và tư, mà lại chọn cách bơi ngược dòng thủy triều?
Trần Văn Phúc
Bài khác
Kỹ thuật lập pháp
Triết gia người Đức Bismarck từng khẳng định: "Có hai thứ rối rắm nhất trần đời là làm xúc xích và làm luật".
Sự rối rắm của việc làm xúc xích luôn cho ra đời những sản phẩm thơm ngon, bổ dưỡng. Sự rối rắm của việc làm luật lại không phải bao giờ cũng vậy. Có những dự luật được soạn thảo lên xuống cả hàng chục lần, nhưng vẫn chỉ là một sản phẩm "bỏ thì thương, vương thì tội". Chính vì vậy, tính hữu ích của sự rối rắm chỉ chắc chắn có khi làm xúc xích, không phải với việc làm luật.
Sau gần 30 năm làm việc cho Quốc hội, tôi càng nhận thức rõ hơn toàn bộ sự thật nói trên, đặc biệt là trong bối cảnh kỹ thuật lập pháp không phải bao giờ cũng được quan tâm đầy đủ như ở nước ta.
Lấy dự Luật An ninh mạng sẽ được trình Quốc hội thông qua trong ngày mai làm ví dụ, chúng ta sẽ thấy rất nhiều vấn đề thuộc về kỹ thuật lập pháp có vẻ chưa được xử lý thỏa đáng.
Trước hết là việc nhận biết vấn đề. Trên thế giới, người ta làm luật là để xử lý vấn đề phát sinh trong cuộc sống, hơn là để đáp ứng đam mê điều chỉnh của các nhà lập pháp.
Vậy thì vấn đề mà dự Luật An ninh mạng được thiết kế để xử lý là vấn đề gì? Có phải đó là vấn đề hệ thống mạng - không gian số - của chúng ta không an toàn; hay là hệ thống mạng thì vẫn an toàn, nhưng đang được sử dụng để tuyên truyền chống phá Nhà nước?
Có vẻ như cả hai yếu tố nói trên đều có. Thế thì kỹ thuật lập pháp bắt buộc chúng ta phải xác lập ưu tiên ở đây. Xác lập ưu tiên nghĩa là xác định đâu là vấn đề hệ trọng hơn của đất nước. Cái nào quan trọng hơn quả thực còn phụ thuộc vào góc nhìn của mỗi người. Tuy nhiên, khi không gian số đang là không gian quan trọng nhất cho sự phát triển của đất nước trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0; khi kinh tế số sẽ quyết định sự thịnh vượng của dân tộc ta trong thời gian sắp tới; khi dữ liệu lớn đang dần trở thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất của mỗi quốc gia, thì an ninh và an toàn mạng phải là ưu tiên hàng đầu.
Tên dự luật là "Luật An ninh mạng" có lẽ đã phản ánh được ưu tiên nói trên. Tiếc rằng với các giải pháp lập pháp được đề ra trong dự luật, thì ưu tiên cho an ninh, an toàn mạng lại trở thành thứ yếu so với ngăn chặn tuyên truyền chống phá Nhà nước trên mạng.
Hai là lập luận về việc phải lựa chọn giải pháp lập pháp. Nếu vấn đề sử dụng mạng để chống phá Nhà nước là vấn đề phải được ưu tiên xử lý, thì chúng ta vẫn cần trả lời được câu hỏi: Tại sao phải lập pháp? Câu trả lời bắt buộc ở đây phải là: Tại vì không còn giải pháp nào khác.
Có phải thật như vậy không? Công cụ để xử lý vấn đề tuyên truyền chống phá Nhà nước đã có đầy đủ trong Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật Tổ chức các cơ quan điều tra hình sự… Các công cụ này được sử dụng cho mọi không gian, thì tại sao lại không thể sử dụng được cho không gian mạng? Nếu lập luận là phải có một lực lượng để bảo vệ an ninh quốc gia trên mạng, thì chẳng lẽ cũng cần một lực lượng để bảo vệ an ninh quốc gia trên không, một lực lượng để bảo vệ an ninh quốc gia trên biển, một lực lượng để bảo vệ an ninh quốc gia trên đất liền? Tại sao những lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia hiện hữu lại không thể bảo vệ an ninh quốc gia trên mạng? Nếu câu trả là vì các lực lượng này không đủ năng lực, thì giải pháp phải được đề ra là nâng cao năng lực, chứ không phải là lập pháp. Nếu các lực lượng này có đủ năng lực thì tại sao lại phải bỏ sức người, sức của ra để thành lập một lực lượng khác?
Quả thực, lập luận cho được tại sao lại phải cần giải pháp lập pháp ở đây là điều không dễ.
Ba là cần những phân tích về chi phí và hiệu quả. Những giải pháp lập pháp được đề ra trong dự Luật An ninh mạng sẽ làm phát sinh những chi phí hết sức to lớn cho cả Nhà nước, cả xã hội và người dân. Đó là chưa nói tới những hạn chế liên quan đến quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sáng tạo trên không gian số sẽ ảnh hưởng hết sức to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế số của Việt Nam. Với những chi phí to lớn cả về sức người, sức của, cả về sự phát triển trong tương lai, thì lợi ích mà chúng ta đạt được có thật sự lớn hơn không?
Cuối cùng là việc phân tích xem các giải pháp lập pháp được đề ra có hợp Hiến không? Hiến pháp có cho phép chúng ta làm điều đó không? Quả thực phép phân tích này không biết đã được tiến hành đến đâu, nhưng những băn khoăn, về việc các quyền Hiến định của người dân có thể cần được quan tâm nhiều hơn là có thật.
Nguyễn Sĩ Dũng
Ý kiến bạn đọc ()Tôi rất thích câu "Trên thế giới, người ta làm luật là để xử lý vấn đề phát sinh trong cuộc sống, hơn là để đáp ứng đam mê điều chỉnh của các nhà lập pháp"
Đúng là người đã làm việc lâu năm trong cơ quan lập pháp. Rất sâu sắc, khách quan và tuyệt vời. Xin cảm ơn ông rất nhiều.
Quá hay. Đúng tầm nhìn vĩ mô, đi vào cái gốc rễ của vấn đề. Hi vọng canh tỉnh kịp thời cho những người lập pháp.
Các câu hỏi tác giả đặt ra rất chặt chẽ! Không thể bấm nút thông qua 1 luật nào đó khi câu từ ngữ nghĩa của nó còn mơ hồ mông lung...
Xin cám ơn Ông, rất lâu mới thấy một phân tích hay, thỏa đáng của một nhà làm Luật về một vấn đề kỹ thuật chuyên sâu là "Mạng và thông tin mạng". Xin lỗi, tôi làm CNTT mà khái niệm "An ninh mạng" như trong dự thảo Luật thật sự tôi không hiểu hết ...
Cần phải đưa bài viết này cho từng Đại biểu trước khi bấm nút thông qua.
Cùng tác giả
2018-06-12 20:29 GMT+07:00 Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com>:
https://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/ky-thuat-lap-phap-376 2183.html
Được gửi từ iPhone của tôi


GIÁ là danh từ chung dùng để chỉ giá trị của PHÍ, VẬT CHẤT, NGOẠI TỆ.. v.v... trong quá trình mua bán, trao đổi. Bởi vậy các loại PHÍ khác nhau đều có GIÁ khác nhau. GIÁ của PHÍ có thể được xác định thuần túy theo quy luật thị ...
95 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Chí lý, sắc bén. Bạn và tôi đã trả PHÍ tham quan bảo tàng bằng việc mua vé với GIÁ 10.000 đ
27 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Quá chuẩn. Tôi là tài xế xe tải và vẫn thường xuyên trả phí BOT bằng việc mua vé với giá 25.0000đ.
22 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Theo tôi, Phí là chi phí còn giá là Giá cả.
Chi phí thì hiểu mặc định là số tiền cần phải trả, bất di bất dịch.
Giá cả, là cái qui định trên một đơn vị sản phẩm, nó bằng giá trị với sự ưng thuận người mua và bán. Vì ...
34 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Bác sỹ ngoài việc tận tâm khám chữa bệnh cứu người vẫn phải có tiền để lo cho gia đình và cuộc sống. Nhưng đồng tiền đến với họ bằng cách nào là quan trọng nhất, thể hiện phẩm chất đạo đức của người bác sỹ.
17 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Giải thích có vẻ tối nghĩa và "ghen ghét " gì đó. Học và thực hành đến tận 13 năm mới được lên chuyên môn, ko cho người ta cái quyền kiếm tiền xứng đáng à ? Bác sĩ họ ko vòi vĩnh "hãy đưa bao thư" , người dân năn nỉ và xin được "cấp dưỡng" cho họ đấy.
Thích | Trả lời | Chia sẻ
Theo tôi nghĩ, sản phẩm mua bán trên thị trường có 2 nhóm chính là "hàng hoá" và "dịch vụ". Theo đó tiền trao đổi hàng hoá thì ta gọi là "giá" và tiền trao đổi dịch vụ thì ta gọi là "phí". Đây là các thuật ngữ ta có ...
13 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Bạn nói nhiều mà không hiểu gì về giá. Như bạn ở trên đã nói giá là giá trị bằng tiền của 1 đơn vị sản phẩm .
Nếu người tự mua thuốc thì họ phải trả tiền thuốc chứ làm gì có chuyện trả giá thuốc. Cụ thể tiền thuốc ...
3 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Tôi rất thích bài viết này! Có rất nhiều người chưa hiếu khái niệm thế nào là phí, thế nào là giá.
8 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Chính chúng ta chưa quan tâm xây dựng các bộ thuật ngữ lập quy, thuật ngữ chuyên môn chuẩn nên mới xảy ra nhiều tình huống hài hước khi lạm dụng hoặc tuỳ tiện sử dụng tiếng Việt. Cần phải xem xét việc này một cách nghiêm túc thì mới ...
3 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Nếu chỉ thay đổi tên gọi thì dù tên mới có khác bao nhiêu cũng không thay đổi được bản chất.
7 Thích | Trả lời | Chia sẻ
like!
4 Thích | Trả lời | Chia sẻ
Cùng tác giả