Trang chủ

DANH MUC


Muc luc

Giới thiệu
Tin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Google
Amazon
Yahoo
Facebook
Youtube
Skype Me™!

Liên lạc với chúng tôi

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2017

Fwd: Nhà bác học Việt thông thạo 26 thứ tiếng lúc mới 25 tuổi


---------- Forwarded message ----------
From: Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com>
Date: 2017-01-06 10:09 GMT+07:00
Subject: Re: Nhà bác học Việt thông thạo 26 thứ tiếng lúc mới 25 tuổi
To: Quyen nguyen tan <tanquyen9@gmail.com>


TTO - Chia sẻ cảm xúc từ bài viết "Hãy trỗi dậy, Việt Nam!", TS Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho rằng nếu có thể Đổi mới lần 2, thì đó là cần phải đổi mới con người.

Hãy 'cởi trói' để chào đón người tài
TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Ảnh: N.Bình

Nếu như Đổi mới lần 1 
là khơi gợi nguồn lực 
kinh tế thì Đổi mới lần 2 phải từ nguồn lực con người. Phải làm sao để nguồn lực này bung ra, bung hết cỡ. Đừng để những con người có năng lực bị trói buộc, không thể hiện hết khả năng

TS Đỗ Thiên Anh Tuấn

Chính phủ không thiếu những chương trình kêu gọi, thu hút nhân tài nhưng chúng ta vẫn đang thiếu cơ chế để những nhân tài ấy phát huy năng lực và đóng góp cho đất nước.

Bắt đầu từ bộ máy nhà nước

Hội nhập, phát triển nền kinh tế ngày càng tinh vi hơn đòi hỏi những con người điều hành thích ứng với sự tinh vi đó và quản lý được nó. Chúng ta có vẻ như đang thiếu những con người hiểu cặn kẽ sự tinh vi của nền kinh tế hội nhập, của những biến chuyển mới trong thế giới ngày càng liên quan chặt chẽ với nhau.

Hệ thống quản trị của chúng ta có vẻ như đang thiếu nhân tài như vậy, trong khi những người có đủ khả năng thì lại chưa thể tham gia vào hệ thống vì những trở 
ngại khác nhau.

Với cơ chế hiện nay, tôi cho rằng chúng ta vẫn chưa thật sự "cởi trói" để chào đón những người tài, những con người am hiểu, có tri thức đủ sức vận hành nền kinh tế theo những thay đổi nhanh chóng của thế giới.

Điều này ở một chừng mực nào đó đã vô tình trở thành một lực cản phát triển nền kinh tế. Giới doanh nghiệp vẫn truyền tai câu "Cái gì Nhà nước không quản lý được thì cấm" và doanh nghiệp nhiều lần "chịu trận" bởi cách quản lý này. Trong khi chúng ta đều hiểu không quản lý được là do năng lực quản trị kém, sự yếu kém trong quản lý làm cho nền kinh tế không đáp ứng được sự phát triển của xã hội.

Quy luật của nền kinh tế luôn vận động, đi lên, đáng ra cán bộ công chức phải luôn nâng cấp, tương thích với sự vận động đó thì chúng ta lại không có động lực để tự làm điều đó.

Đã đến lúc chúng ta bỏ tư duy quy hoạch cán bộ một cách cứng nhắc. Quy hoạch cán bộ cần được xem là tín hiệu phát ra cơ hội phát triển cho các cá nhân chứ không phải là sự triệt tiêu động lực phấn đấu, dám làm của các cá nhân.

Muốn vậy, cần có tiêu chuẩn hệ thống đánh giá quy hoạch nhân sự dựa trên năng lực, hiệu quả công việc, nỗ lực phấn đấu chứ không phải quan hệ, lợi ích nhóm... Chừng nào chúng ta chưa có thể chế dung nạp, hấp thu người tài thì tình trạng "chảy máu chất xám quốc gia" 
vẫn còn tiếp diễn.

Hãy 'cởi trói' để chào đón người tài
Cần thu hút thêm người tài, có tri thức để đủ sức vận hành nền kinh tế theo những thay đổi nhanh chóng của thế giới. Trong ảnh: thí sinh thi tuyển công chức ở TP.HCM - Ảnh: Tự Trung

Tăng năng suất 
từ giáo dục

Tại sao Singapore có năng suất lao động cao gấp nhiều lần Việt Nam? Chừng nào con người chưa giải phóng được năng lực thì khó cải thiện được năng suất lao động. Đổi mới lần 2, vì vậy, phải tập trung về con người từ lãnh đạo đến mỗi công dân. Mỗi con người trong hệ thống phải tự giải phóng, nâng cấp mình. Và họ cần có động lực làm việc để một người có thể làm bằng công việc của hai hay ba người.

Trong kinh tế, có hai yếu tố đóng góp cho tăng trưởng là vốn tích lũy và lao động, làm sao cùng một đơn vị vốn và lao động, chúng ta tạo ra nhiều sản phẩm đóng góp cho xã hội càng tốt. Việt Nam đang ở trong tình trạng trang bị vốn trên lao động chưa đủ hay hiểu đúng hơn, chúng ta đang thừa lao động nhưng lại thiếu vốn để sử dụng lao động.

Nhưng ngay cả khi lao động có việc làm thì số lao động hữu dụng cũng chưa cao, lao động Việt Nam vẫn thường bị đánh giá thiếu kỹ năng, phải đào tạo lại. Đó là bài toán thường được nhắc nhiều trong các báo cáo đánh giá.

Chung quy của những câu chuyện trên là nền tảng giáo dục. Việt Nam đang cần một nền giáo dục thực chất, không trọng bằng cấp, đào tạo những lao động có kỹ năng, những công dân có năng lực làm chủ đất nước. Cải cách giáo dục không chỉ mang lợi ích hiện tại mà còn cho tương lai. Một thế hệ khù khờ không thể quản lý gia sản quốc gia để lại, nên câu chuyện đổi mới lần này giáo dục không thể nằm ngoài.

Hãy làm tốt công việc của mình

Tôi thường nhớ câu thơ trong sách giáo khoa đã học hồi phổ thông: "Đất nước này là đất nước của nhân dân". Tôi nghĩ, ý thơ không chỉ nói về việc làm chủ của người dân mà còn là vai trò của mỗi người trong sự chuyển động của đất nước, đi về trước hay thụt lùi là do mỗi người dân tham gia vào tiến trình ấy.

Nghĩ vậy nên tôi vẫn luôn tự nhủ, việc chúng ta đóng góp cho đất nước hay địa phương mình sống không phải là vấn đề lý thuyết suông, mang ý to tát hóa tình yêu nước, phụng sự Tổ quốc mà được thể hiện mỗi ngày thông qua vị trí công việc mà mình đang phụ trách, được giao.

Hãy làm tốt việc mình đang làm! Bạn có từng tự hỏi bản thân đã làm tốt nhất công việc của mình? Nhiều khi việc của mình chúng ta làm chưa tốt, còn trễ nải, còn nhiều sai sót nhưng lại rất dễ thấy những chỗ dở của người khác cũng như những tồn tại (đương nhiên) của mọi người, xã hội xung quanh.

Đó là cái dở của mình đã làm trì trệ thêm khả năng có thể đóng góp cho nơi mình đang làm, xa hơn là cho đất nước - thay vì dành thời gian chê bai xung quanh, mình tập trung cho hoàn thiện chính mình hơn.

Bạn đã thực làm tốt công việc của mình? Xin được hỏi cho bạn nhưng cũng là hỏi cho chính mình - để cùng trăn trở về sự trỗi dậy của đất nước trong ý niệm về sự chuyển động đi lên của mỗi người. Một tập thể làm sao có thể vững mạnh khi mỗi cá nhân không thật sự nỗ lực?

Và một tập thể cũng không thể tiến lên được khi có nhiều người đóng góp mà một vài kẻ phá hoại. Do vậy, bên cạnh việc khơi dậy sự nỗ lực đóng góp của mỗi cá nhân cho đất nước thì nhiệm vụ loại bỏ những "con sâu làm rầu nồi canh" cũng cấp thiết không kém.

Sự trỗi dậy của đất nước đương nhiên có vai trò của sự thay đổi mạnh mẽ trong việc xử lý những sự bất công, những vụ việc gây mất niềm tin đã hé lộ. Từ đó mới có thể đòi hỏi sự đóng góp của mỗi người dân cho đất nước, cho dân tộc được.

Và đó cũng là một sự cam kết vững chắc, cần thiết, song hành cùng nhau chứ không phải chỉ một chiều, rồi cứ một bên ra sức xây còn một nhóm nhỏ cố phá vì lợi ích 
cá nhân của mình!

TẤN KHÔI


2017-01-06 8:58 GMT+07:00 Quyen nguyen tan <tanquyen9@gmail.com>:

Nhà bác học Việt thông thạo 26 thứ tiếng lúc mới 25 tuổi

Thông thạo 26 thứ tiếng lúc 25 tuổi, Trương Vĩnh Ký khiến nhà văn Pháp Émile Littré (1801-1881) kinh ngạc: "Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học (bác học ngôn ngữ) bậc nhất thời nay".

Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất nhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ở Bảo Tàng Mỹ Thuật TP.HCM)  - Ảnh tư liệu

Ngay từ thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin… để giao lưu và hội nhập dễ dàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thần đồng tự học nhiều hơn ở trường

Trương Vĩnh Ký từ lúc lọt lòng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thạnh cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài Gòn đã trải qua bao cơn sóng gió.

Cha ông là cụ Trương Chánh Thi, quê quán Bình Định, vào Nam lập nghiệp ở một khu vực đất Vĩnh Long (nay khu vực này thuộc Bến Tre).

Cha ông là một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn, mất lúc Trương Vĩnh Ký 3 tuổi.

Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Châu, một người mẹ hiền và lam lũ, sinh một gái và hai trai.

3 tuổi, ông thuộc làu Tam tự kinh.  4 tuổi, ông học viết. 5 tuổi (năm 1842) cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học.

Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...    

Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...

Học tiếng La tinh với bạn Lào, Thái, Miến, Nhật, Trung..., học luôn tiếng bạn bè

Sau khi ông Trương Chánh Thi chết, một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là Cố Tám đã chỉ dạy cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi chữ "Quốc ngữ".

Ông nhận thấy cậu Ký còn nhỏ mà có đầu óc thông minh hơn người, chỉ biết thú đọc sách hơn đi chơi đùa, có chí cầu tiến, đã gửi cậu Ký cho một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.

Rồi ông Thừa Hòa phải đi xa nên đã nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký.

Năm 11 tuổi (1848), Trương Vĩnh Ký được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.

Lớp học có 25 học sinh từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)… Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên của các bạn cùng trường.

Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng. 

Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở đảo Penang, Malaysia.

Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia, nơi người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm. 

Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.

Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…

Trong thời gian ở Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ thông minh của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường. 

Ông đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hi Lạp, Tây Ban Nha... Ông tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình.  

Trong thời gian theo học tại Penang, Trương Vĩnh Ký tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm. 

Nhà nhiếp ảnh người Anh là J.Thomson viết quyển "Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương", trong đó có đoạn: "Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…".

Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ.

Như vậy, việc học ngoại ngữ của Pétrus Ký được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không đơn thuần chỉ dựa vào trí thông minh như nhiều người nghĩ.

Càng khâm phục hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: "Học thầy không tày học bạn".

Viết sách dạy những tiếng Pháp lẫn nhiều tiếng trong Asean ngày nay

Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.

Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).

Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: "Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay".

Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là "nhà bác học về ngôn ngữ", nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
 Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay 
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu 
 Lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký thời Pháp thuộc ở một góc Công viên Thống nhất
Tượng Petrus Trương Vĩnh Ký trước năm 1975 ở Công viên thống nhất hiện nay - Ảnh tư liệu 
 * Học giả Pháp Jean Bouchot cuối thế kỷ 19 khẳng định Trương Vĩnh Ký là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cả với nước Trung Hoa hiện đại". Ông viết:: "Người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học...".

Nhà văn Sơn Nam: "Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch...Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ...".

Giáo sư Thanh Lãng: "Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn...Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là "cách nói tiếng An Nam ròng" và viết "trơn tuột như lời nói". Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.

Nhà nghiên cứu Lê Thanh: "Từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.


Theo Tuổi trẻ