Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.
Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
Chào đón những tài năng nhập cư
Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.
Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.
Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.
Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.
Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.
Bài học rút ra
Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
Thanh Xuân lược dịch
http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
---
1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.
Chào mừng các bạn đến với blog cựu học sinh trường Phú Nhuận năm học 1981 -1984. Hy vọng các bạn sẽ tìm được những điều bổ ích từ trang blog. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ các bạn
Trang chủ
DANH MUC
Muc luc
Giới thiệuTin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Amazon
Yahoo
Youtube

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét