Trang chủ

DANH MUC


Muc luc

Giới thiệu
Tin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Google
Amazon
Yahoo
Facebook
Youtube
Skype Me™!

Liên lạc với chúng tôi

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Re: Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương tri!

Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được
- Từ Nhật Bản, GS Trần Văn Thọ, Đại học Waseda gửi đến VietNamNet
phân tích của ông về những thành quả cũng như tồn tại của nền kinh tế
VN sau 30 năm đổi mới, những thách thức mà Việt Nam phải đối diện,
đồng thời nêu ý tưởng cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.
VietNamNet giới thiệu bài viết này như một góp ý cho dự thảo văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12:
Đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy nghèo và trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp. Nhưng so với tiềm năng, kể cả những thời cơ
thuận lợi bị bỏ lỡ và so với kinh nghiệm của các nước Đông Á thì tốc
độ phát triển của Việt Nam thấp và kém hiệu suất.
Các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát triển nhanh
đưa nền kinh tế lên giai đoạn cao trong thời gian ngắn nhờ khát vọng
của lãnh đạo, của quan chức muốn đưa đất nước theo kịp các nước tiên
tiến, từ đó chủ nghĩa phát triển và tinh thần dân tộc được đề cao,
người tài được trọng dụng, tinh thần doanh nghiệp (DN) được phát huy.
DN tư nhân là động lực đưa nền kinh tế phát triển.
Hiện nay Việt Nam trực diện ba thách thức lớn. Thứ nhất là nguy cơ
chưa giàu đã già. Cơ cấu dân số vàng sắp qua đi, giai đoạn lão hóa dân
số sẽ đến gần kề mà thu nhập đầu người còn rất thấp. Thứ hai là nguy
cơ có sự phân hóa nền kinh tế thành hai khu vực, FDI và tư bản trong
nước. Thứ ba là nguy cơ mắc vào bẫy thu nhập trung bình thấp (bẫy thu
nhập trung bình đến sớm khi thu nhập đầu người còn thấp).
Kết quả phân tích ở trên đã gợi nhiều ý khi bàn về phương châm, chiến
lược, chính sách cần thiết trong tương lai trung và dài hạn của Việt
Nam. Xuất phát quan trọng nhất, có tính cách quyết định là khát vọng,
khí khái của những người lãnh đạo trong giai đoạn sắp tới.
Đánh giá thành quả phát triển của Việt Nam từ sau Đổi mới
Nhật Bản: Quan chức năng lực, thanh liêm
Hai giai đoạn quan trọng đã làm thay đổi nước Nhật là thời kỳ Minh Trị
duy tân (1868-1911) và thời kỳ phát triển cao độ còn gọi là thời đại
phát triển thần kỳ (1955-1973). Hai thời kỳ có những đặc điểm chung là
tố chất yêu nước và tinh thần trách nhiệm cao độ của lãnh đạo chính
trị, và năng lực, đạo đức của quan chức nhà nước.
Cuối thập niên 1950, nhà chính trị Ikeda Hayato thai nghén một ý tưởng
về việc đưa nước Nhật vào thời đại phát triển mới, đáp ứng nguyện vọng
của đại đa số dân chúng. Trong lúc tìm kiếm ý tưởng, ông đọc được bài
viết của Giáo sư kinh tế Nakayama Ichiro về khả năng tăng gấp đôi tiền
lương thực chất tức mức sống của người dân trong vòng 10 năm. Ông lập
nhóm nghiên cứu qui tụ các trí thức, các nhà kinh tế tâm huyết và có
năng lực để bàn bạc, nghiên cứu việc triển khai ý tưởng đó. Chính
Ikeda trực tiếp tham dự nhiều buổi họp thâu đêm của nhóm này.
Cuối cùng kết luận của nhóm là hiện nay tiết kiệm trong dân đang tăng,
đất nước đang mở cửa hội nhập với thế giới nên công nghệ nước ngoài sẽ
được du nhập dễ dàng; đó là hai tiền đề để đầu tư tích lũy tư bản. Đầu
tư có hai hiệu quả là vừa tăng tổng cầu vừa tăng khả năng cung cấp
(sản xuất) của nền kinh tế. Do đó kinh tế Nhật hy vọng sẽ bước vào
thời đại bột phát mạnh mẽ.
Được nhóm chuyên viên, trí thức triển khai về mặt lý luận và các chính
sách cụ thể, Ikeda tự tin và đã quyết định lấy Chiến lược bội tăng thu
nhập quốc dân làm cam kết chính trị trong cuộc tranh cử vào vị trí chủ
tịch đảng. Ikeda thắng cử và trở thành thủ tướng vào tháng 7/1960.


Công nhân kiểm tra chất lượng xe tại nhà máy Toyota Miyata ở tỉnh
Fukuoka, Nhật Bản. Ảnh: Bloomberg
Cốt lõi của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân (từ 1960 đến 1970) là
toàn dụng lao động, làm cho dân chúng thấy cuộc sống được cải thiện rõ
rệt, và đưa Nhật lên hàng các nước tiến tiến.
Phương châm cơ bản là tạo điều kiện để DN tư nhân tích cực đầu tư.
Công việc của chính phủ chỉ là cố gắng tiết kiệm công quỹ để có thể
giảm thuế nhằm kích thích đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng, và bảo đảm
an sinh xã hội. Phát triển là công nghiệp hóa, là phát triển ngành
dịch vụ nên lao động phải chuyển dần từ nông nghiệp sang các khu vực
phi nông. Do đó Ikeda đã nhấn mạnh phải ra sức giáo dục bậc cao đẳng
và hướng nghiệp để quá trình chuyển dịch lao động không bị gián đoạn.
Ikeda đã thổi vào xã hội một không khí phấn chấn, tin tưởng vào tương
lai. DN tích cực đầu tư, mọi người hăng hái làm việc. Kết quả là kinh
tế đã phát triển nhanh, vượt xa kế hoạch rất nhiều. Bình quân kinh tế
phát triển trên 10%, thay vì 7% như kế hoạch, chiến lược bội tăng thu
nhập quốc dân đạt được mục tiêu chỉ trong 7 năm, thay vì 10 năm như kế
hoạch ban đầu.
Theo giá thực tế năm 2000, tổng thu nhập quốc dân trên đầu người của
Nhật vào năm 1960 là 7.700 USD, đến năm 1970 tăng lên 16.600 USD. Mức
chi tiêu của một gia đình giới lao động vào năm 1960 trung bình mỗi
tháng là 32.000 yen, đến năm 1970 đã tăng lên 83.000 yen. Lương tháng
của công nhân trong ngành công nghiệp đã tăng từ 23.000 yen năm 1960
lên 72.000 yen năm 1970.
Trừ đi độ trượt giá mỗi năm vài phần trăm, trên thực chất thu nhập của
giới lao động đã tăng gấp đôi hoặc hơn. Ngoài ra, số lao động có việc
làm tăng nhiều hơn so với kế hoạch và số giờ làm việc mỗi tháng của
giới lao động giảm từ 203 giờ còn 187 giờ. Thập niên 1960 cũng là giai
đoạn người Nhật chứng kiến nhà nhà có tủ lạnh, quạt máy, máy giặt,
TV...
Tầm nhìn chiến lược về dân tộc
Tại sao kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân thành công ngoài dự kiến?
Một là bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược về dân tộc, về đất nước của lãnh
đạo, từ đó có khả năng qui tụ người tài chung quanh mình trong việc
hoạch định chiến lược, chính sách cụ thể. Hai là đội ngũ quan chức có
năng lực và thanh liêm, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước. Do 2
yếu tố cơ bản này, ta thấy họ đã đưa ra nhiều chính sách rất thiết
thực và thực hiện các chính sách rất có hiệu quả. Đơn cử vài thí dụ:
Thứ nhất, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi DN, yểm trợ DN nhỏ và vừa
bằng chính sách tín dụng, thủ tục hành chính đơn giản, hầu như không
có tham nhũng nên đầu tư tăng rất nhanh.
Tỉ lệ đầu tư trên GDP tăng từ 20% năm 1955 lên 30% năm 1960 và 35% năm
1970. Trong tổng đầu tư có tới 75% là của DN tư nhân. Những công ty tư
nhân nổi tiếng sau này như Honda, Sony, Toyota, v.v. đều lớn mạnh
trong giai đoạn này. DN nhỏ và vừa vay vốn đầu tư dễ dàng, thậm chí
những DN có số lao động dưới 20 người vẫn dựa chủ yếu vào vốn vay ở
các ngân hàng và cơ quan tín dụng hiện đại.
Thứ hai, ngoại tệ được quản lý chặt chẽ và tiết kiệm tối đa, hạn chế
việc đi du lịch nước ngoài và kiểm soát gắt gao việc quan chức dùng
ngoại tệ đi tham quan nước ngoài.
Thay vào đó, ngoại tệ chủ yếu để nhập thiết bị, nguyên liệu và công
nghệ cần thiết cho đầu tư. DN hăng hái cách tân công nghệ, sản xuất
sản phẩm đã có với giá thành và phẩm chất tốt hơn hoặc sản xuất những
sản phẩm mới, cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới.
Do cách tân công nghệ và do việc quản lý hành chánh, quản trị doanh DN
có hiệu suất, nên kinh tế phát triển rất có hiệu suất. Tuy đầu tư
nhộn nhịp như vậy nhưng độ cống hiến của tư bản trong tăng trưởng chỉ
có độ 25%, trong khi cống hiến của công nghệ, của quản lý tức năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là 65%.
Ngoài ra còn nhiều chính sách khác về giáo dục, khoa học công nghệ, về
đẩy mạnh xuất khẩu, về tổ chức thị trường… Nói chung lãnh đạo và quan
chức khẩn trương triển khai thực hiện các chính sách để đạt mục tiêu
của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân; và DN đã hưởng ứng tạo nên
khí thế đầu tư mạnh mẽ.
Nói về tố chất của quan chức Nhật Bản, tôi muốn giới thiệu trí tuệ,
hành động và tác phong của các quan chức Bộ Công Thương (MITI) vào
giữa thập niên 1950 mà tôi gọi họ là những anh hùng trong thời đại
phát triển.
Lúc đó một chiếc xe hơi nhập khẩu từ Mỹ vào giá rất đắt, tương đương 5
năm tiền lương của một quan chức trung cấp. Các quan chức ở Bộ Công
Thương lúc đó mơ ước có ngày người dân bình thường cũng sẽ có xe hơi
và cho rằng phải phát triển ngành xe hơi mới làm cho Nhật giàu mạnh.
Có nhiều ý kiến khác nhau về điểm này, kể cả một số lãnh đạo trong
đảng cầm quyền sợ kế hoạch sản xuất xe hơi sẽ không thành công và có
thể gây va chạm trong quan hệ Nhật-Mỹ. Nhưng các quan chức Bộ Công
Thương đã tích cực vận động lãnh đạo chính phủ và DN để thực hiện cho
được kế hoạch này vì tin sự quan trọng của ngành xe hơi đối với Nhật
trong tương lai.
Nhưng ý chí là một chuyện còn khả năng có thực hiện được không và làm
sao để thực hiện có hiệu quả là một chuyện khác. Lợi thế so sánh của
Nhật lúc đó là các hàng công nghiệp dùng nhiều lao động giản đơn như
vải vóc, giày dép…
Đang phân vân về khả năng sản xuất của nước mình, các quan chức đọc
được bài viết của giáo sư Shinohara Miyohei (1919-2013) bàn về lợi thế
so sánh động (lợi thế so sánh trong tương lai) và các điều kiện để
biến lợi thế so sánh động thành hiện thực. Họ vui mừng và liên lạc
ngay với giáo sư Shinohara xin gặp để hỏi chi tiết hơn.
Trong hồi ký viết hồi tháng 6/2009, Shinohara kể như sau: "Hồi đó 4-5
quan chức Bộ Công Thương đến nhà tôi vào buổi tối. Chúng tôi trò
chuyện mãi đến khuya vẫn còn muốn tiếp tục, cuối cùng gần 5 giờ sáng
họ mới ra về".
Còn rất nhiều câu chuyện tương tự về sự cầu thị, nhiệt tình lo việc
nước của quan chức Nhật thời đó.
Sau đó, Bộ Công Thương tự tin là Nhật có thể sản xuất xe hơi được và
đã đặt ra các chính sách yểm trợ DN xúc tiến sản xuất. Những chiếc xe
đầu tiên ra đời còn xấu về hình dáng nên một số người Mỹ trong ngành
xe hơi có vẻ chế nhạo. Nhưng quan chức Bộ Công Thương kiên quyết với
phương châm "Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được". Như ta đã biết,
ngành xe hơi Nhật phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1960.
Có thể nói tinh thần dân tộc là động lực đưa đến hành động của quan
chức nhà nước và kết quả là nền công nghiệp Nhật đã phát triển mạnh
mẽ.
GS Trần Văn Thọ(Đại học Waseda, Nhật Bản)
Chọn người tài làm việc nước
Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó
vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn
phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất
ngắn.
Bài 1: Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được
Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước này bắt đầu từ khi
Park Chung-hee nắm chính quyền (năm 1961), thiết lập thể chế độc tài
nhưng với quyết tâm phát triển đất nước.
Năm 1988 Hàn Quốc tổ chức thành công Thế vận hội Seoul và năm 1996
được kết nạp vào khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế),
một tổ chức của các nước tiên tiến. Từ lúc bắt đầu kế hoạch phát triển
đến khi trở thành thành viên của tổ chức các nước tiên tiến, Hàn Quốc
chỉ mất có 35 năm!
Tại sao Hàn Quốc thành công trong quá trình phát triển liên tục,
chuyển từ giai đoạn đói nghèo sang giai đoạn thu nhập trung bình thấp,
rồi trung bình cao, và tiến thẳng lên nước có thu nhập cao trong thời
gian ngắn?
Những người giỏi nhất ở các đại học danh tiếng nhất
Thứ nhất, ngay từ đầu Hàn Quốc đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về
sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tiên tiến, nhất
là theo kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình).
Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính
trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc tài, quyết tâm phát triển
của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược, chính sách
do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người
tài được trọng dụng.
Như nhận xét của nhiều chuyên gia về Đông Á, ở Hàn Quốc, nhà nước có
truyền thống chọn được người tài ra làm việc nước từ những người giỏi
nhất ở các đại học danh tiếng nhất.
Đặc biệt, Park Chung-hee lập Hội đồng họach định kinh tế (Economic
Planning Board) quy tụ những chuyên gia học ở Mỹ về, được giao tòan
quyền họach định chiến lược. Khi chiến lược đã được hoạch định, Park
trực tiếp chỉ đạo việc động viên các nguồn lực (vốn, ngoại tệ,…) và
tạo các cơ chế để chiến lược thành công. Khi cần thiết ông tự mình,
một cách rất công tâm và vì đất nước, chọn ra những DN có tiềm năng và
tạo điều kiện thuận lợi để họ khởi động quá trình sản xuất những ngành
công nghiệp nằm trong chiến lược phát triển.


Thủ đô Seoul của Hàn Quốc
Thứ hai, Hàn Quốc xây dựng được một cơ chế rất hiệu suất, hiệu quả về
quan hệ giữa nhà nước và DN. Trong quá trình đuổi theo các nước tiên
tiến, mục tiêu cụ thể là tích cực đầu tư, tích lũy tư bản (nhưng tỉ lệ
tiết kiệm ban đầu quá thấp phải vay nợ trong thời gian dài), đồng thời
bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ và đẩy mạnh xuất khẩu để có
ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu, công nghệ và trả nợ. Như vậy vai trò
của nhà nước rất lớn. Trong tình hình đó, ở nhiều nước khác, DN cấu
kết với quan chức để được tiếp cận với vốn vay ưu đãi, với ngoại tệ
khan hiếm và với các nguồn hỗ trợ cho xuất khẩu. Nạn tham nhũng dễ
phát sinh từ đó.
Nhưng Hàn Quốc nhìn chung đã tránh được tệ nạn đó nhờ có cơ chế minh
bạch, nhất quán, công minh có tính cách kỷ luật. Cụ thể là DN đuợc
nhận ưu đãi phải có nghĩa vụ tăng năng lực cạnh tranh, chẳng hạn phải
xuất khẩu nhiều hơn truớc. Nếu không hoàn thành nghĩa vụ sẽ không được
hưởng ưu đãi trong giai đoạn sau. Nói chung, các DN phải cạnh tranh
nhau, đưa ra mục tiêu phấn đấu khả thi mới nhận được ưu đãi của nhà
nước.
Khi đặt xuất khẩu là mục tiêu của quốc gia thì người lãnh đạo cao nhất
phải thường xuyên quan tâm và chỉ đạo chính phủ theo dõi diễn tiến thị
trường để có những điều chỉnh kịp thời về chính sách. Cơ chế hợp tác,
liên kết giữa chính phủ và DN cũng được xúc tiến. Đặc biệt từ năm
1965, hàng tháng chính phủ tiến hành hội nghị thúc đẩy xuất khẩu. Ấn
tượng nhất là tổng thống đích thân làm chủ tịch và chủ trì hội nghị
này. Mục tiêu xuất khẩu đặt ra rất lớn nhưng hầu như năm nào cũng đạt
được là nhờ cơ chế như vậy.
Thứ ba, Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập.
Tỉ trọng dành cho giáo dục vào cuối thập niên 1950 chỉ có dưới 10%
ngân sách nhà nước, nhưng đã tăng liên tục lên 15-18% trong thập niên
1960, và 19-21% trong đầu thập niên 1980. Đây là một trong những nước
có tỉ lệ rất cao trong hai chỉ tiêu: tỉ lệ của sinh viên du học trên
tổng số sinh viên trong nước và tỉ lệ người du học trở về trên tổng số
sinh viên đi du học. Thành quả này nhờ có các cơ chế liên quan đến
việc thi tuyển và đãi ngộ người tài.
Trong nỗ lực học tập, một điểm gây ấn tượng nữa là Hàn Quốc không
ngừng tăng cường hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ (R&D).
Tỉ lệ của chi tiêu R&D trên GDP đã tăng liên tục từ 1% vào đầu thập
niên 1980 lên đến khoảng 2,5% vào năm 2000 và 3,4% năm 2007. Trong nỗ
lực này, trong giai đoạn từ thập niên 1980 trở về trước, nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, sau đó DN tư nhân đóng vai trò chính tuy ngân sách
của nhà nước vẫn tăng liên tục.
Trung Quốc: Cùng thể chế, vì sao thành quả phát triển hơn VN?
Trong khoảng 30 năm qua, nhất là từ thập niên 1990, kinh tế Trung Quốc
phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1980 đến 2008 bình quân mỗi năm tăng 10%,
sau đó giảm nhưng vẫn giữ mức 7%. Trung Quốc đã trở thành công xưởng
thế giới và từ năm 2010 là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Gần đây nhiều người bắt đầu đặt câu hỏi: Tại sao thành quả phát triển
của Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam, mặc dù cùng một thể chế chính trị,
cùng một mục tiêu cơ bản về phát triển xã hội. Năm 1991, Việt Nam đưa
ra mục tiêu xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn Trung
Quốc vào năm 1992 cũng phát biểu phương châm cơ bản là xây dựng kinh
tế thị trường XHCN hoặc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc.
Trung Quốc bắt đầu cải cách mở cửa trước Việt Nam 8 năm. Có thể nói
lãnh đạo của Trung Quốc đã dứt khoát theo chủ nghĩa phát triển. Cụ thể
là cho kinh tế tư nhân tự do phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho
nước ngoài đến đầu tư trực tiếp (FDI).
Trong thập niên 1980, phe bảo thủ còn mạnh nhưng phe cải cách đã theo
phương châm "Thực tiễn là thước đo chân lý" lấy thành quả cải cách
bước đầu thuyết phục được những người bảo thủ và tiếp tục cải cách.
Khi thấy khu vực phi quốc doanh phát triển mạnh, và thành hình một
giới lãnh đạo DN mới, thay vì kìm hãm họ để bảo vệ lý tưởng vì giai
cấp công nông, Trung Quốc đã đưa ra thuyết Ba đại diện (năm 2002) để
tu chỉnh lý tưởng, mục tiêu của đảng Cộng sản.
Thứ hai là vai trò của chính quyền địa phương. Tại Trung Quốc, chính
quyền địa phương cũng có tinh thần của "chủ nghĩa phát triển". Các địa
phương cạnh tranh nhau trong quá trình phát triển. Địa phương phát
triển là điều kiện để lãnh đạo được đề bạt lên các chức vụ ở trung
ương.
Thứ ba là năng lực triển khai chiến lược phát triển. Sau khi có chiến
lược, phương châm phát triển, khả năng bắt tay ngay vào việc triển
khai cụ thể được hay không dĩ nhiên ảnh hưởng đến thành quả phát
triển.
Về mặt này thái độ của Trung Quốc rất ấn tượng. Ngay từ khi quyết định
cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã nhận thức sức mạnh của công nghệ, của
tri thức và có chiến lược tận dụng nguồn lực của Nhật và Mỹ, hai nước
được họ xem là mạnh nhất thế giới lúc đó. Họ cũng chọn Quảng Đông và
Phúc Kiến để lập đặc khu kinh tế nhắm vào sức mạnh và tâm lý hoài
hương của Hoa kiều mà đa số xuất thân từ hai tỉnh này.
Thực tiễn cho thấy chiến lược này rất đúng đắn. Trong thập niên 1980,
trong khi hành lang pháp lý chưa được hoàn thiện, DN Âu Mỹ và Nhật Bản
còn e ngại, sợ rủi ro, chưa đầu tư bao nhiêu thì Hoa kiều đã tích cực
đổ vốn và đưa công nghệ vào 4 đặc khu kinh tế. Sang thập niên 1990,
làn sóng FDI từ Đài Loan, Nhật Bản và các nước Âu Mỹ bắt đầu tích cực
chảy đến Trung Quốc.
Thứ tư là chất lượng bộ máy nhà nước. Về phí tổn kinh doanh, tình
trạng tham nhũng, hiệu suất của bộ máy hành chính, và các chỉ tiêu
khác liên quan chất lượng thể chế, Trung Quốc đã cải thiện nhanh. Theo
Doing Business 2014, số loại thuế mà DN phải nộp tại Trung Quốc giảm
từ 35 loại năm 2005 xuống còn 7 loại vào năm 2012.
GS Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Nhật Bản)
Kỳ tới: Chủ nghĩa phát triển và mũi đột phá cho VN



On 9/8/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương tri!
> Ngày: 05 / 09 / 2015 Trong: Tư Duy Đại Dương | bình luận : 26
> Bi kịch của xã hội Trung Quốc: Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương
> tri!
> Theo NTDTV – 29 Aug 2015 – Tinh Vệ biên dịch
>
> Bi kịch của xã hội Trung Quốc có rất nhiều, nhưng sâu sắc nhất nằm ở
> tầng lớp tinh anh của xã hội, có thể khái quát bằng hai câu: Người
> giàu không có tầm nhìn! Tri thức không có lương tâm!
> (GNA: Bài không nói gì về Việt Nam)
> Người giàu không có tầm nhìn!
> Hơn 30 năm trở lại đây, với việc Trung Quốc thoát khỏi nghèo khó, một
> bộ phận người giàu vượt lên trước, trong nhóm người giàu lại có không
> ít người siêu giàu trở thành tâm điểm chú ý của thế giới! Ở đây có hai
> vấn đề:
> – Trong những người này có bao nhiều người giàu lên nhờ vào trí tuệ
> của mình thực sự cùng với sự cần cù lao động?
> – Những người siêu giàu có kéo theo sự thịnh vượng chung cho người dân
> trong nước chưa?
> Vấn đề này, tin rằng những ai có trí tuệ bình thường đều có thể tự trả lời
> được.
> Theo truyền hình Hồng Kông: 1% người giàu ở Trung Quốc đại lục sở hữu
> 41% tổng của cải toàn dân trong nước, trong khi đó ở đất nước giàu
> nhất thế giới như Mỹ thì tỷ lệ chỉ là 4%. Có thể thấy chênh lệch giàu
> nghèo ở Trung Quốc so với Mỹ là khác biệt rất xa.
> Trong tình trạng này, người siêu giàu ở Trung Quốc dùng tài sản làm gì?
> Trả lời câu hỏi này có thể xem lại vài số liệu sau:
> Một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Quốc là tỉnh Sơn Tây, thế mà lại
> có người bỏ tiền ra mua một lúc 20 chiếc xe hummer. Trung Quốc là nước
> vừa mới vượt qua "chuẩn nghèo" 1000 USD (thu nhập bình quân người/năm
> – ND), tuy nhiên đây lại là nước chi dùng xa xỉ phẩm vào loại hàng đầu
> thế giới. Hơn 100 triệu tệ chi cho đồng hồ Rolex, 300 ngàn tệ chi cho
> Cartier trâm, 5 triệu tệ cho kim cương… Những hạng mục xa xỉ phẩm từ
> nước ngoài vào Trung Quốc ngày càng nhiều với tốc độ ngày càng nhanh
> hơn. Người giàu Trung Quốc thích "xa xỉ phẩm", họ chi mạnh tay và hào
> phóng đến người giàu nhất thế giới như Rockefeller cũng phải kiêng nể…
> Remy Martin của Pháp có thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc! Những
> sòng bạc ở Myanmar mang lại doanh thu lớn cho nước này, nhưng chủ yếu
> nằm ở biên giới Trung Quốc-Myanmar, những kẻ quăng tiền vào đó chủ yếu
> là người giàu và quan chức chính phủ Trung Quốc. Dịch vụ khiêu dâm ở
> Thái Lan là trụ cột của ngành công nghiệp du lịch nước này, tại các tụ
> điểm khiêu dâm người giàu Trung Quốc thuộc loại khách hào phóng nhất.
> Những kẻ lắm tiền này có ý thức thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho
> người dân trong nước không?
> Phần tử tri thức thiếu lương tri!
> Phần tử tri thức là lớp người tiên tiến dẫn dắt xã hội ở bất kỳ quốc
> gia nào. Nhưng phần tử tri thức Trung Quốc xuất phát từ một nền giáo
> dục có vấn đề nên không thể phát huy được tác dụng này. Những vấn đề
> liên quan đến phần tử tri thức có rất nhiều, nhưng "thiếu lương tri"
> là vấn đề chủ yếu.
> "Lương tri" là gì? Đó là ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội và bảo
> vệ đạo đức; là dũng khí sống vì chân lý; là kiên quyết không vì những
> cái lợi trước mắt mà bị thế lực đen tối mua chuộc.
> Một người dân bình thường có thể "lương tri" còn yếu; nhưng phần tử
> tri thức tuyệt đối không thể thiếu "lương tri"! Một dân tộc mà phần tử
> tri thức thiếu lương tri thì dân tộc đó không có hy vọng gì!
> Ví dụ tiêu biểu về phần tử tri thức có lương tri ở Trung Quốc cận đại
> có thể kể là Đàm Tự Đồng và Thu Cẩn. Sau biến pháp Mậu Tuất thất bại
> (1898), Đàm Tự Đồng thành tội phạm truy nã của triều đình, lính triều
> đình đến nơi ở bắt ông. Khi đó Đàm Tự Đồng có đủ thời gian để chạy
> thoát, giống như bạn của ông là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lưu
> vong ở Pháp. Thế nhưng Đàm Tự Đồng quyết không bỏ chạy, ông đã nói với
> người bạn khi đến báo tin: "Những nhà cách mạng phương Tây không tiếc
> sinh mạng, nhưng ở Trung Quốc chuyện này thật hiếm hoi, xin lấy Tự
> Đồng làm khởi đầu!"
> Ngày nay, phần tử tri thức nhiều hơn thời Đàm Tự Đồng và Thu Cẩn cả
> trăm lần, nhưng mấy người có ý thức trách nhiệm vì dân và dũng khí đạo
> đức như vậy? Bao nhiêu người có "lương tri" thật sự?
> Thực ra Trung Quốc ngày nay cũng có những phần tử tri thức biết giữ
> "lương tri", nhưng số người này đặt trong tập đoàn khổng lồ chỉ có thể
> là con số "vô cùng nhỏ nhoi".
> Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học "luồn cúi quyền lực" hoặc
> "tham lợi bán điểm"?
> Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô
> vẽ hỗ trợ bọn tham quan?
> Có bao nhiêu "nhà văn" viết tiểu sử cho lũ sâu mọt quốc gia?
> Có bao nhiêu "nhân sĩ nổi tiếng" vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt
> bỏ nguyên tắc?
> Có bao nhiêu kẻ biên soạn cái gọi là "Sổ tay danh nhân", "Sổ tay nghệ
> thuật gia"?
> Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề "môi giới dược phẩm"?
> Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách đào tiền trong túi học trò?
> Có bao nhiêu "nhà kinh tế học" vì "tiền thưởng" của bọn tài phiệt mà
> đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường?
> Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh
> nhân?
> Ở Trung Quốc, thiếu "lương tri" có lẽ không chỉ là nhóm phần tử "tri
> thức"; nhưng phần tử tri thức có "cảnh giới" cao hơn những người bình
> thường, nên có nghĩa vụ giữ "lương tri" của mình nhiều hơn so với
> những người bình thường.
> Nếu phần tử tri thức chỉ biết tranh giành lợi ích cá nhân, cái giá cho
> mỗi lợi ích cá nhân được thỏa mãn sẽ là sự hy sinh nguyên tắc "gìn giữ
> công chính", vì nó có được bằng sự mua chuộc, bằng sự hy sinh nguyên
> tắc chuẩn mực. Một phần tử tri thức bị mua chuộc thì không thể nào còn
> tồn tại "lương tri".
> Khi phần tử tri thức mất lương tri thì sẽ mất đi sự tôn trọng của toàn
> xã hội, cái giá phải trả là rất lớn! Những bài học bi kịch kiểu này có
> vô số trong lịch sử Trung Quốc.
> Các bài viết liên quan:
> 1. Ấn tượng trong tuần: Thiếu tâm, thiếu tầm, thiếu…quyền?
> 2. Một góc nhìn về an toàn thực phẩm
> 3. Lợi nhuận- Điều không thể thiếu của sự thịnh vượng (bản dịch)
> 4. Những Bài Học Làm Giàu
> 5. Năng Lượng Mặt Trời (Bài 2)
>