Những người Việt thành tỷ phú trên đất Mỹ
Câu chuyện về những người Việt Nam ở nước ngoài có lẽ là câu
chuyện chưa bao giờ kể hết. Có những góc khuất còn nhiều
vất vả nhưng cũng có những tấm gương vươn lên, thành công, ghi
dấu ấn khiến người người nể phục. Thậm chí họ còn nhận
được cả sự ngưỡng mộ và kính trọng từ bạn bè khắp nam
châu.
Cuộc sống phát triển, những khoảng cách như được kéo gần
lại, tài năng, bản lĩnh của con người cũng có dịp được phát
huy và tỏa sáng. Trên thế giới, có rất nhiều tỷ phú gốc
Việt đã chứng minh được thành công của họ, đặc biệt là ở
ngay chính những thiên đường kinh doanh của đất nước sở tại.
Bằng khả năng, sự nhạy bén trong kinh doanh, tư duy linh hoạt
những tỷ phú này đã khiến người dân Mỹ, giới kinh doanh ở
nơi được đánh giá là sôi động bậc nhất thế giới phải kiêng
dè.
Chính E.Chu - Người "đạo diễn" kế hoạch thu mua tập đoàn Dell
Cái tên Chính E.Chu là một cái tên vô cùng quen thuộc trong
giới đầu tư tài chính Mỹ
Hiện tại Chính E.Chu đang là giám đốc cấp cao của tập đoàn
đầu tư tài chính Blackstone (Mỹ). Chính E.Chu sở hữu trong tay
số tài sản lên tới 1,1 tỷ USD. Biệt tài mà mọi người nhớ
tới ông chính là khà năng "đạo diễn" hàng loạt vụ thương
thuyết cho Blackstone. Nhiều người nói đùa rằng "không có
thương vụ nào tuột khỏi tay Chính E.Chu".
Chính E. Chu (Chính Chu) sinh năm 1966 tại Việt Nam. Năm 1975, ông
cùng gia đình di cư sang Mỹ với vốn liếng chỉ vài trăm USD. Vừa đi
học, ông Chu vừa đi bán sách lẻ và giao đến tận nhà. Chu có bằng cử
nhân Tài chính tại Đại học Buffalo, một trường công tại New York (Mỹ).
Bằng khả năng của mình, Chính E.Chu đã lần lượt "thu mua" rất
nhiều tập đoàn, công ty... thu lại khoản lợi nhuận vô cùng
béo bở và trở thành một cái tên khiến phố Wall phải kiêng
dè.
Bài học thành công của Chính E.Chu chính là sự kiên trì theo
đuổi mục tiêu. Theo ông, chỉ cần bạn có mục tiêu và kiên trì
theo đuổi nó thì thành công sẽ không quay lưng lại với bạn.
Chính E.Chu được đánh giá cao ở khả năng phân tích và nhạy
bén về tài chính. Ông còn khiến phố Wall phải kiêng nể khi
trở thành "đạo diễn" cho kế hoạch thu mua lại Tập đoàn máy tính
Dell với giá khoảng 25 tỷ USD.
Chính E.Chu chồng của ca sĩ Hà Phương (thứ hai trong số 3 chị em Cẩm
Ly, Minh Tuyết, Hà Phương). Ngoài công việc kinh doanh, hai vợ chồng
Chính Chu còn tổ chức và điều hành một số hoạt động từ thiện và có 2
quỹ riêng: Vietnam Relief Effort và Ha Phuong Foundation. Cả hai vợ
chồng thường xuyên về Việt Nam tham gia các hoạt động từ
thiện ở nhiều vùng quê nghèo.
Trung Dung - Điển hình cho "Giấc mơ Mỹ"
Năm 1984, Trung Dung mới 17 tuổi và đến Mỹ với 2 USD trong tay.
Tuy nhiên, ông đã khiến cho cả nước Mỹ phải e dè và nể phục
vì khả năng vươn lên của mình. Với khả năng kinh doanh, sự
nhạy bén trong lĩnh vực công nghệ, ý chí không sợ khổ, sợ
khó đã giúp Trung Dung trở thành một điển hình trong cuốn sách
Giấc mơ Mỹ của tác giả Dan Rather.
Để sống và hoàn thành việc học Trung Dung đã phải lao động
một cách cật lực và làm bất kỳ việc nào có thể. Mặc dù
vậy, chàng thanh niên nghèo năm nào vẫn hoàn thành chương
trình tiến sĩ và bắt đầu làm việc khởi điểm tại công ty
Công ty phần mềm thương mại điện tử OpenMarket.
Một thời gian sau Trung Dung rời OpenMarket để thành lập công ty
OnDisplay vào năm 1996. Với thành công của mình, Trung Dung đã
khiến phố Wall kiêng dè về khả năng phát triển trong ngành
Internet Mỹ, vốn là thế mạnh của đất nước này.
Tính đến năm 2000, Trung Dung được cả nước Mỹ biến đến với
món "hời" lợi nhuận gần 1,8 tỉ USD từ thương vụ bán cổ phần
của OnDisplay.
Charlie Tôn Quý - Ông hoàng của nghề nail
Charlie Tôn Quý trong buổi khai trương cửa hàng (đứng thứ 2 từ
trái sang).
Người ta nói rằng việc làm dễ kiếm ra tiền nhất của người
Việt tại Mỹ chính là làm nail (nghề chăm sóc móng tay, móng
chân). Tuy nhiên, Charlie Tôn Quý lại không muốn nghề nghiệp này
chỉ là một trong những nghề tạm bợ, ông đã khiến nó trở
thành một "thiên đường hái ra tiền".
Với khởi điểm chỉ là một bài tiệm nail đầu tiên, Charlie Tôn
Quý đã bắt đầu kế hoạch vươn xa hơn nữa của mình bằng cách
đưa tiệm nail vào các siêu thị, cửa hàng...
Một thời gian sau, gần 1,200 cửa hàng nail của Charlie Tôn Quý
đã có mặt trên toàn nước Mỹ. Charlie Tôn Quý đã thành công khi
đưa thương hiệu Regal Nails trở nên nổi tiếng khắp toàn nước
Mỹ. Không những thế, ông cũng giúp rất nhiều lao động Việt
Nam có việc làm trong các cửa hàng nail của mình.
Hiện tại, với gần 1.200 cửa hàng nail, thu nhập bình quân của
Regal Nails là khoảng 500 triệu USD mỗi năm. Không dừng lại tại
đó, Regal Nails đang tham vọng đưa thương hiệu ra toàn thế giới.
Theo soha.vn
On 11/10/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
>
>
> Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
> nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
> các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
> Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
> kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
> cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
> 2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
> nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
> gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
> khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
> đỉnh.
>
> Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
> kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
>
> Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
>
> Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
> Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
> Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
> 450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
> này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
>
> Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
> từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
> tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
> tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
> được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
> khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
> hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
>
> Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
> nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
> nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
> cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
> không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
> ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
> người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
>
> Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
> cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
> gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
> và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
> những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
>
> Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
> chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
> tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
>
> Chào đón những tài năng nhập cư
>
> Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
> phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
> Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
> luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
> cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
> gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
> tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
> tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
> 60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
> nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
> nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
> nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
> biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
> sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
>
> Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
>
> Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
> lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
> vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
> sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
> nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
> vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
> Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
> chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
> của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
> Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
> được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
> của Chính phủ.
>
> Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
> hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
> qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
> lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
> trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
> trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
>
> Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
> Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
> hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
> nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
> kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
> của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
> phủ), Yago nói.
>
> Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
> quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
> hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
> khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
> nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
> các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
> nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
> phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
> độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
> nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
> ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
>
> Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
> cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
> tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
> thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
> những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
> tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
> nghệ.
>
> Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
>
> Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
> toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
> Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
> Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
> lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
> Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
> người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
> Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
> giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
> tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
> tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
> khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
> địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
> đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
> vững vàng.
>
> Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
> trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
> có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
> targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
> trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
> phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
> ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
> rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
> chút.
>
> Bài học rút ra
>
> Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
> trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
> đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
> hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
> công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
> biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
> chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
> hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
> khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
> cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
>
> Thanh Xuân lược dịch
>
> http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
>
> ---
>
> 1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
> Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
> Cuộc chiến tháng 10.
>
Chào mừng các bạn đến với blog cựu học sinh trường Phú Nhuận năm học 1981 -1984. Hy vọng các bạn sẽ tìm được những điều bổ ích từ trang blog. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ các bạn
Trang chủ
DANH MUC
Muc luc
Giới thiệuTin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Amazon
Yahoo
Youtube

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015
Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel
Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.
Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
Chào đón những tài năng nhập cư
Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.
Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.
Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.
Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.
Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.
Bài học rút ra
Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
Thanh Xuân lược dịch
http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
---
1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.
Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.
Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
Chào đón những tài năng nhập cư
Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.
Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.
Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.
Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.
Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.
Bài học rút ra
Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
Thanh Xuân lược dịch
http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
---
1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)