CEO người Nhật: Người Việt chỉ giỏi lý thuyết, sách vở
Đây là lần thứ 2, ông Ito Junichi, CEO công ty World Link Japan Inc,
đã lên tiếng nhận xét về lao động Việt.
>> Sinh viên được "thổi lửa" nghề nghiệp từ CEO công nghệ Hàn Quốc
>> 11 điều ít biết về CEO Facebook
>> Bí quyết lãnh đạo của một CEO 26 tuổi
Theo chia sẻ của ông trên facebook, lần đầu ông đến Việt Nam, cách đây
20 năm, ông thấy người Việt Nam cần cù, chăm chỉ như người Nhật.
Thế nhưng, ông cho hay: "Một điều có thể thấy là người Việt coi thường
những người lao động chân tay. Nhiều người trẻ thích làm trong các văn
phòng tiện nghi, có điều hòa.
Ở Nhật, sinh viên ĐH nổi tiếng nhất là ĐH Tokyo nhưng đến nhà máy thực
tập phải dọn dẹp, làm vệ sinh, họ phải học lao động tay chân. Họ phải
học mọi thứ trước khi học làm sếp".
Người Việt đã lười hơn rất nhiều so với cách đây 20 nămTrong khi,
nhiều người Việt trẻ tốt nghiệp ĐH, thạc sĩ nhưng họ chưa làm việc
thật bao giờ. Họ chỉ học trên giấy tờ, đọc sách, báo nhưng chẳng hiểu
thực tế gì cả. Họ chỉ thích làm việc bàn giấy, họ nặng lý thuyết mà
thiếu thực tế.
"Thiết nghĩ Việt Nam nên tạo điều kiện cho những người giỏi kỹ năng
thay vì chỉ tạo điều kiện cho những người chỉ biết làm bài kiểm tra!",
ông Ito Junichi đưa ra lời khuyên.
Đây cũng không phải lần đầu tiên, ông Ito Junichi đưa ra những suy
ngẫm về lao động Việt, trước đó, ông cũng từng đưa ra nhìn nhận người
lao động Việt Nam ngày nay thích kiếm tiền nhưng lại không chăm chỉ.
Thậm chí, có thể thấy là người Việt Nam thường coi thường những người
lao động chân tay như thợ hàn, công nhân lao động, công nhân xí
nghiệp.
Trước những nhận định của CEO người Nhật, PGS.TS Nguyễn Văn Nam -
nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại cho hay: "Theo tôi thì
thanh niên bây giờ do giáo dục không tốt, quản lý kém, cho nên mới đua
đòi kiểu sống thực dụng, không biết công việc ổn định như thế nào, mà
chỉ quan tâm kiếm được bao nhiêu tiền để đi nhậu, đi chơi.
Bị ảnh hưởng từ lối sống chộp giật, lối sống trước mắt, nhưng nó không
phải tất cả. Vì cũng có nhiều người chịu khó học hành, làm việc ổn
định chăm chỉ.
Thực ra bệnh lười cũng là đặc tính của bất cứ con người nào trên Trái
Đất này, muốn làm nhàn nhã mà được ăn no đủ, đó là một mong muốn
chung. Nhưng nhiều khi là do cơ chế chính sách, để họ thấy sống lười
tốt hơn là chăm".
Theo ông Nam phân tích, như trong một cơ quan thủ trưởng đánh giá
không sâu sát, cứ theo quy định máy móc, 3 năm là tăng lương, vậy thì
chăm cũng 3 năm sẽ tăng, lười thì cũng 3 năm mới tăng. Cơ chế chính
sách quản lý đó làm cho họ thấy chăm làm gì, trong khi lười vẫn sẽ
đàng hoàng.
"Theo tôi tất cả là do cơ chế, do nền giáo dục hiện nay kém, cho nên
không cho họ cái nhìn xa, không đặt cho mình những thách thức, mục
tiêu để phấn đấu, để vươn lên. Trong khi cứ nói là làm theo Bác Hồ,
nhưng đó chỉ là lời nói gió bay có khuyến khích những người chăm chỉ
làm việc đâu.
Bên cạnh đó, bệnh thành tích của dân ta nặng lắm, kể cả đến lãnh đạo
cơ quan quản lý hiện nay cũng phấn đấu vì thành tích", ông chỉ rõ.
Đồng tình quan điểm, TS Nguyễn Văn Vịnh, nguyên Phó viện trưởng Viện
Nghiên cứu Xã hội cho rằng, thực ra, nếu như XH tạo được hết việc làm
cho công dân, nếu như XH có cách quản lý rất tốt, thì đương nhiên đó
là XH tốt.
Bản thân chúng ta đang lúng túng, ở chỗ như người từ quê ra hội nhập,
thới quen của một nước quan phương, bây giờ đi vào cách thức khác mang
tính chuyên nghiệp, cũng cần thời gian làm quen.
Không những vậy, tại diễn đàn tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt
Nam ngày 19/11 vừa qua, ông Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam cũng đã từng nhắc lại lời một chuyên gia kinh tế nổi tiếng:
"Hiện nay Hàn quốc xuất khẩu ông chủ sang Việt Nam, còn Việt Nam chủ
yếu xuất khẩu lao động sang làm thuê cho Hàn Quốc!".
Ông Thiên cũng trích lời GS Trần Văn Thọ khi nói rằng: "Cứ cái đà này
(tiếp tục xuất khẩu lao động) thì Việt Nam sẽ là quốc gia đi làm thuê
cho toàn thế giới".
Theo Báo Đất Việt
Xem thêm :bệnh thành tích, công việc ổn định, Người lao động
---------- Forwarded message ----------
From: Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com>
Date: Tue, 1 Dec 2015 08:55:02 +0700
Subject: Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
To: "huutoan66.weblog" <huutoan66.weblog@blogger.com>
"Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá"
Thứ Hai, 30/11/2015 10:09
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty My Lan: "Trở
về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại
sao".
11 năm gây dựng một nơi được ví như "thung lũng Silicon" xanh, sạch
ngay trên một tỉnh nghèo Việt Nam, đó là con đường lội ngược dòng của
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Mỹ Lan, một
Việt kiều trở về từ Canada.
Nằm tại khu công nghiệp Long Đức, tỉnh Trà Vinh, Mỹ Lan là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên sản suất hóa chất và bản kẽm phục
vụ cho ngành in trong nước và xuất khẩu. Nơi đây đã sản xuất vật liệu
hóa chất quang điện tử đầu tiên ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành
nước thứ 12 trên toàn cầu sản xuất loại vật liệu này.
Ông Nguyễn Thanh Mỹ (giữa) trong một lần chào mừng nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết.
Ông Mỹ nói với BizLIVE:
Trở về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại sao".
Tại sao người Việt Nam thông minh mà thiếu sáng tạo? Tại sao vô vườn
không thấy trái cây Việt Nam, toàn giống của nước ngoài? Tại sao mỗi
lần vào, ra sân bay cũng bị vòi tiền? Tại sao nhà trường dạy đạo đức,
trách nhiệm, mà xã hội lại thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm, ra
đường không tuân theo luật giao thông, đâu cũng thấy rác rưởi?
Biết bao câu hỏi tại sao...
Tôi muốn gây dựng một thế giới xanh ở Mỹ Lan, để trả lời cho những câu
hỏi này, hơn là chỉ để kiếm tiền. Mình thử tạo một môi trường mới ngay
ở một mảnh đất nghèo của quê hương, để các em nhân viên có chỗ sáng
tạo, có trách nhiệm với cộng đồng, xem có làm được hay không?
Biến thói quen xấu thành tốt là khó nhất
Ông đã làm thế nào để biến những chàng trai, cô gái chân quê thành
những nhân viên có tác phong công nghiệp?
11 năm qua, để xây dựng một môi trường xanh hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn
quả không hề đơn giản. Ngay từ đầu tôi chủ trương nếu nghiên cứu sản
phẩm không xanh hơn không làm.
Hàng năm Mỹ Lan có vài sáng chế mới rất thân thiện với môi trường, từ
bản in dùng nhiều hóa chất, giờ chỉ cần nước với xà phòng thôi. Tập
đoàn kinh doanh minh bạch, thông suốt, đóng thuế hàng đầu, trước ký
hạn, không có ẩn số nào hết, đúng luật lệ.
Về con người, tôi chia thành hai đối tượng để tuyển dụng và đào tạo.
Thứ nhất là những người có tính năng động, cầu tiến, chuyên môn cao.
Loại người thứ hai muốn cầu tiến nhưng chuyên môn yếu. Chuyên môn có
thể dạy, nhưng tính cầu tiến, năng động không dạy được.
Làm thế nào ư? Tôi bắt đầu huấn luyện nhân viên từ cái… toa lét công
ty! Đa số nhân viên là nông dân địa phương, đâu dùng toa lét hiện đại
bao giờ. Phải dạy các em từ cách ngồi bàn cầu, rửa tay, chùi kiếng để
người kế bước vô lúc nào cũng sạch.
Biến thói quen xấu thành thói quen tốt là khó nhất.
Bên cạnh đó, tôi có kế hoạch hợp tác lâu dài với Đại học Trà Vinh để
sinh viên vừa học vừa làm ngay tại Mỹ Lan, có lương 2 triệu đồng/
tháng, cung cấp đồng phục, ăn uống đầy đủ. Riêng tôi đảm nhiệm luôn
vai trò Trưởng khoa Hóa học ứng dụng tại Đại học Trà Vinh.
Lớp học của tôi không có ghế, tôi chủ yếu dạy các em đặt câu hỏi. Mỗi
em phải có một câu hỏi mới được bước vào lớp.
Hiệu quả của những thay đổi này đến đâu?
Các em ngày càng tự hào hơn khi mặc đồng phục công ty, tự tin hơn với
cuộc sống, chính các em lại là người mang văn minh công ty về làng xóm
của mình, đó là động lực giúp tôi vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt
của môi trường làm ăn.
Mặc dù, cũng chính sự khác biệt đó đôi khi lại dẫn đến... hậu quả. Có
nhiều nhân viên nữ làm ở công ty đã bỏ chồng, bỏ người yêu do không
còn phù hợp với nhau nữa. Môi trường công ty văn minh hơn bên ngoài,
có tiền lương cao hơn bên ngoài, được tôn trọng hơn, vệ sinh sạch sẽ
hơn… đã khiến cho nhiều mối tình tan vỡ.
Cách giải quyết của tôi là khuyến khích các em cưới nhau. Hiện tôi đã
tổ chức đám cưới cho 90 cặp, chỉ có một cặp sau một năm rưỡi trở lại
với nhau đã ly thân, nhưng các em vẫn cùng nhau lo cho con. Hàng ngày
thấy các em có cuộc sống ổn định hơn, khỏe mạnh hơn, tôi rất mừng.
Ở đây luôn duy trì chế độ khám chữa bệnh, khám chữa răng cho các em.
Với những cháu bị bệnh mãn tính, tôi gửi đi khám ở bệnh viện Pháp
Việt.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tới học cách quản lý của My Lan, tôi luôn mở
cửa và chia sẻ hết những gì mình làm.
Công ty trở thành "showroom" cho tỉnh, nhiều người thắc mắc thấy mình
đầu tư cảnh quan nhiều mà vẫn có lợi nhuận cao? Đơn giản là, hiệu quả,
năng suất nhân viên cao hơn nhiều so với chỗ khác vì họ yêu thích môi
trường làm việc.
Gần đây Viettel cũng vô học hỏi mô hình làm việc ở đây. Hy vọng Mỹ Lan
là chỗ người ta nhìn thấy, để thay đổi cách vận hành văn minh hơn,
giúp người Việt tự tin hơn với dân tộc mình.
Đó cũng chính là câu trả lời của riêng tôi. Rất mừng là bây giờ đôi
khi Nhà nước cũng đã nghe người ta nói khác, nghĩ khác. Chắc thời bao
cấp sẽ lần lần lui về quá khứ, cũng đỡ.
Đầu óc cũ làm người Việt không tin nhau
Khó khăn nhất trong 11 năm qua với ông là gì?
Với tôi kinh doanh bao giờ cũng thú vị, chỉ có những chuyện râu ria
làm mình bực. Thời mở cửa rồi mà chúng ta cứ dạy học sinh tư bản là kẻ
thù, tạo ra kẻ thù thì đất nước không phát triển được đâu.
Mấy năm đầu về Trà Vinh, tôi bị nghi ngờ "thằng này là tư bản", không
tốt đâu. Đến khi mình làm tốt quá người ta cũng đặt nghi vấn, ông này
trồng cây xanh nhiều quá có khi để… chôn hóa chất dưới đó!
Đôi khi cũng phát mệt với các cơ quan ban ngành. Cả tỉnh Trà Vinh chưa
có nơi nào ăn ngon và sạch như công ty mình, vậy mà người ta cũng kiếm
cách chê, tìm cho được một con muỗi. Nhiều khi cũng bị cảm xúc, tâm lý
tưởng khó có thể vượt qua.
Mình đang làm ăn ở Canada, mọi thứ đều minh bạch, rõ ràng, về đây sao
cực nhọc quá! Nhiều khi sang Canada, vợ tôi cản, bảo anh ở lại đi, về
làm chi nữa? Tôi phải rất khó khăn mới thuyết phục được gia đình.
Cũng may bây giờ đỡ rồi, mình làm đàng hoàng, đúng hơn cái người ta
cần nữa thì đâu có sợ gì.
Vậy thì theo ông, đâu là điểm yếu khiến cho Việt Nam chưa quy tụ được
nhiều người tài từ thế giới về cống hiến cho đất nước?
Đầu óc cũ, lạc hậu làm người Việt mình không tin nhau.
Một doanh nhân như tôi hàng ngày phải quan hệ với cơ quan ban ngành
Nhà nước, với doanh nghiệp xung quanh. Anh Alan Phan nói rất đúng,
doanh nhân Việt Nam phải đối diện với những quan hệ rất phức tạp, đôi
khi cũng nản chí.
Chẳng hạn, đụng với nhân viên quản lý môi trường, họ chẳng cần coi
mình làm gì, mà chỉ kiếm phong bì.
Tôi nhớ năm 2006, sau một năm công ty vận hành, tổ chức tiệc tất niên,
công bố doanh thu, tiền lời, tưởng được khen ngợi, ai ngờ chiều về,
công an kinh tế bắt 5 nhân viên tra hỏi, tại sao mới một năm công ty
đã có lời?
Cái gì mình làm khác mà tốt hơn người ta cũng bị nghi ngờ.
Nhưng mừng là càng ngày càng thấy khát vọng phát triển văn minh có ở
rất nhiều người trẻ. Lớp trẻ đòi hỏi phải cho phép họ nghĩ khác để làm
khác, cái khuôn nó trật sao cứ bắt người ta làm giống hoài, tại sao
vậy?
Giờ hội nhập, đất nước càng ngày càng có quan hệ gần gũi hơn quốc tế.
Từ Trà Vinh về Sài Gòn trước tốn 6 giờ giờ chỉ mất 3 giờ, đi đâu cũng
vô Internet được, trong khi nhiều nước không vậy đâu. Đồng thời Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư cũng thoải mái hơn, tôi tin Việt Nam sẽ tốt
hơn.
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
Là một nhà khoa học, con đường trở thành một nhà khoa học với 73 bằng
phát minh, sáng chế được công nhận ở nhiều quốc gia khác nhau, với ông
hẳn đầy chông gai?
Làm tại IBM, con đường khoa học của tôi dễ dàng lắm, vì tính mình đi
vô chỗ nào cũng muốn sửa, đưa ra những sáng chế mới là chuyện bình
thường, hàng ngày.
Nhưng con đường trở thành nhà khoa học mới chông gai. Tôi qua Canada
không cha mẹ, không nghề nghiệp, nói tiếng không ai hiểu. Đi học đại
học trở lại năm 1983, một mặt vừa lo kiếm tiền nuôi vợ con, vừa gửi về
nước nuôi cha mẹ. Bảy năm trời học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, ngày
nào cũng chỉ được ngủ hai ba giờ thôi.
Mùa hè người Canada phơi nắng ngoài trời rất thong thả, trong khi mình
phải thức dậy 2 giờ sáng để đi học, trưa phải đi làm thêm nhà hàng,
tối đi dạy. Nhiều khi muốn bỏ cuộc, phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều,
đầu bên trái nói học để có tiền lương cao hơn, khá hơn thay vì làm bồi
bàn. Nhưng đầu bên phải nói không học có chết đâu, vất vả quá thế này
làm gì...
Cuối cùng ráng cố gắng, ý chí giúp mình vượt qua.
Tôi luôn khuyên những người trẻ ráng cố gắng tìm cách này cách khác,
đừng bao giờ bỏ cuộc hết. Nếu bỏ cuộc không cách nào thành công.
Nhưng ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá. Cái gì cũng đổ thừa tại cha
mẹ nghèo, tại không có vốn, tại...
Nếu khởi nghiệp, cái vốn ngàn tỉ cha mẹ để lại chính là cái đầu nè,
suy nghĩ để đào ra mà xài.
Theo ông, Việt Nam có thể làm nên kỳ tích giống như Ấn Độ, Trung Quốc
trong lĩnh vực phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin?
Người Việt Nam sẽ hơn họ chứ. Nhưng có điều hãy đi từ 0 tới 1, chứ
đứng vội từ 1 tới N, phải phát triển công nghệ thay vì ăn cắp, bắt
chước.
Những nước đang phát triển đừng bắt chước các nước đã phát triển,
Thượng Hải của Trung Quốc là một ví dụ. Phải nghĩ khác, làm khác mới
được. Phải đặt câu hỏi có cách nào làm khác không, tốn ít năng lượng
hơn không, chứ đừng bắt chước. Người Việt Nam đã có gien thông minh,
vấn đề là có chịu làm hay không.
Vừa là nhà khoa học, vừa là doanh nhân, con người nghiên cứu trong ông
có bao giờ mâu thuẫn với con người kinh doanh?
Doanh nhân đi từ người làm khoa học dễ hơn, hiểu về công nghệ, sản
phẩm rõ ràng hơn, có suy nghĩ logic, khoa học hơn. Bản chất doanh nhân
là không bao giờ chấp nhận làm thuê, chỉ làm việc cho chính mình.
Không giả bộ làm doanh nhân được, làm doanh nhân phải là từ trong máu.
Cha tôi ngày xưa có nhiều vợ, ông bỏ mẹ con tôi khi tôi mới lên bảy
tuổi. Tám tuổi tôi đã lăn lưng ra đường kiếm sống, bán kem, bánh mì để
có đồng lời, máu kinh doanh thấm vào từ nhỏ.
Lớn lên, đi làm chỗ nào cũng thấy không hài lòng. Làm nhà hàng thấy
cái bếp tại sao không sạch, thấy ông chủ đối xử với nhân viên không
tốt. Tới chừng làm khoa học cảm thấy không đồng ý với cái mình đang
có. Bất cứ chuyện gì cũng thấy là có thể làm tốt hơn.
Doanh nhân cũng bắt đầu bằng cái muốn làm tốt hơn cho chính mình, và
cho cộng đồng xung quanh, tiền sẽ đi theo thôi. Còn muốn làm doanh
nhân để có nhiều tiền hơn thì chỉ gặp cá sấu hay cá mập.
Người Việt mình giống cá hồi vậy đó
Nhưng, ông có sợ tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế, khoa học sẽ
hủy hoại những giá trị cội nguồn của thiên nhiên, của văn hóa?
Tốc độ phát triển khoa học càng nhanh càng giúp cho trái đất tốt hơn,
nhưng phải nằm trong tay người tốt, bắt đầu từ trái tim, linh hồn tốt
đã.
Đốn gỗ đã đời ở đây rồi qua nước khác đốn, nuôi bò ô nhiễm quá người
dân chịu không nổi, thì thử hỏi làm giàu để làm gì? Làm doanh nhân là
muốn có nhiều tiền hay cũng muốn cả xung quanh tốt hơn?
Người ta có đủ cách để làm không tốt. Người nhiều tiền với người giàu
khác nhau. Người giàu biết họ giàu, có tài sản, tiền bạc, biết chia sẻ
tiền bạc tài sản. Việt Nam mình nhiều đại gia quá mà thiếu người giàu,
còn người trẻ lại nhiều người giàu hơn, dù họ ít tiền hơn đại gia.
Nhưng mình cũng mừng vì đã có những doanh nhân trẻ thực sự tốt, phát
triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ, bản lĩnh, không giống như thời
trước.
Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Có chứ. Trong gia đình không cô đơn, nhưng về xứ mình lại nhiều khi cô
đơn lắm, vì làm khác người ta quá.
Nhưng, dù sướng khổ thế nào ông vẫn ở lại quê hương?
Người Việt mình đẻ ra lớn lên vùng nào, đi đâu thì đi giống như cá hồi
vậy đó, cũng bơi ngược dòng để chết tại quê hương.
Tại sao Trà Vinh phì nhiêu thế, có biển đẹp thế lại bị coi là tỉnh
cùng, tỉnh nghèo?
Vấn đề là cái nhìn của mình thế nào thôi. Tôi muốn chứng minh điều ngược lại.
Theo Kim Yến (Bizlive)
Nld.com.vn
Tin theo chủ đề :
khu công nghiệp
,
môi trường xanh
,
Thung lũng Silicon
,
thiếu minh bạch
,
tiền lương cao
,
trái cây Việt Nam
,
thói quen xấu
,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
,
vốn nước ngoài
,
nguyễn thanh mỹ
Chia sẻ:
Ý kiến bạn đọc4 phản hồi
•
Chào mừng các bạn đến với blog cựu học sinh trường Phú Nhuận năm học 1981 -1984. Hy vọng các bạn sẽ tìm được những điều bổ ích từ trang blog. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ các bạn
Trang chủ
DANH MUC
Muc luc
Giới thiệuTin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Amazon
Yahoo
Youtube

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
"Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá"
Thứ Hai, 30/11/2015 10:09
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty My Lan: "Trở
về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại
sao".
11 năm gây dựng một nơi được ví như "thung lũng Silicon" xanh, sạch
ngay trên một tỉnh nghèo Việt Nam, đó là con đường lội ngược dòng của
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Mỹ Lan, một
Việt kiều trở về từ Canada.
Nằm tại khu công nghiệp Long Đức, tỉnh Trà Vinh, Mỹ Lan là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên sản suất hóa chất và bản kẽm phục
vụ cho ngành in trong nước và xuất khẩu. Nơi đây đã sản xuất vật liệu
hóa chất quang điện tử đầu tiên ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành
nước thứ 12 trên toàn cầu sản xuất loại vật liệu này.
Ông Nguyễn Thanh Mỹ (giữa) trong một lần chào mừng nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết.
Ông Mỹ nói với BizLIVE:
Trở về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại sao".
Tại sao người Việt Nam thông minh mà thiếu sáng tạo? Tại sao vô vườn
không thấy trái cây Việt Nam, toàn giống của nước ngoài? Tại sao mỗi
lần vào, ra sân bay cũng bị vòi tiền? Tại sao nhà trường dạy đạo đức,
trách nhiệm, mà xã hội lại thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm, ra
đường không tuân theo luật giao thông, đâu cũng thấy rác rưởi?
Biết bao câu hỏi tại sao...
Tôi muốn gây dựng một thế giới xanh ở Mỹ Lan, để trả lời cho những câu
hỏi này, hơn là chỉ để kiếm tiền. Mình thử tạo một môi trường mới ngay
ở một mảnh đất nghèo của quê hương, để các em nhân viên có chỗ sáng
tạo, có trách nhiệm với cộng đồng, xem có làm được hay không?
Biến thói quen xấu thành tốt là khó nhất
Ông đã làm thế nào để biến những chàng trai, cô gái chân quê thành
những nhân viên có tác phong công nghiệp?
11 năm qua, để xây dựng một môi trường xanh hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn
quả không hề đơn giản. Ngay từ đầu tôi chủ trương nếu nghiên cứu sản
phẩm không xanh hơn không làm.
Hàng năm Mỹ Lan có vài sáng chế mới rất thân thiện với môi trường, từ
bản in dùng nhiều hóa chất, giờ chỉ cần nước với xà phòng thôi. Tập
đoàn kinh doanh minh bạch, thông suốt, đóng thuế hàng đầu, trước ký
hạn, không có ẩn số nào hết, đúng luật lệ.
Về con người, tôi chia thành hai đối tượng để tuyển dụng và đào tạo.
Thứ nhất là những người có tính năng động, cầu tiến, chuyên môn cao.
Loại người thứ hai muốn cầu tiến nhưng chuyên môn yếu. Chuyên môn có
thể dạy, nhưng tính cầu tiến, năng động không dạy được.
Làm thế nào ư? Tôi bắt đầu huấn luyện nhân viên từ cái… toa lét công
ty! Đa số nhân viên là nông dân địa phương, đâu dùng toa lét hiện đại
bao giờ. Phải dạy các em từ cách ngồi bàn cầu, rửa tay, chùi kiếng để
người kế bước vô lúc nào cũng sạch.
Biến thói quen xấu thành thói quen tốt là khó nhất.
Bên cạnh đó, tôi có kế hoạch hợp tác lâu dài với Đại học Trà Vinh để
sinh viên vừa học vừa làm ngay tại Mỹ Lan, có lương 2 triệu đồng/
tháng, cung cấp đồng phục, ăn uống đầy đủ. Riêng tôi đảm nhiệm luôn
vai trò Trưởng khoa Hóa học ứng dụng tại Đại học Trà Vinh.
Lớp học của tôi không có ghế, tôi chủ yếu dạy các em đặt câu hỏi. Mỗi
em phải có một câu hỏi mới được bước vào lớp.
Hiệu quả của những thay đổi này đến đâu?
Các em ngày càng tự hào hơn khi mặc đồng phục công ty, tự tin hơn với
cuộc sống, chính các em lại là người mang văn minh công ty về làng xóm
của mình, đó là động lực giúp tôi vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt
của môi trường làm ăn.
Mặc dù, cũng chính sự khác biệt đó đôi khi lại dẫn đến... hậu quả. Có
nhiều nhân viên nữ làm ở công ty đã bỏ chồng, bỏ người yêu do không
còn phù hợp với nhau nữa. Môi trường công ty văn minh hơn bên ngoài,
có tiền lương cao hơn bên ngoài, được tôn trọng hơn, vệ sinh sạch sẽ
hơn… đã khiến cho nhiều mối tình tan vỡ.
Cách giải quyết của tôi là khuyến khích các em cưới nhau. Hiện tôi đã
tổ chức đám cưới cho 90 cặp, chỉ có một cặp sau một năm rưỡi trở lại
với nhau đã ly thân, nhưng các em vẫn cùng nhau lo cho con. Hàng ngày
thấy các em có cuộc sống ổn định hơn, khỏe mạnh hơn, tôi rất mừng.
Ở đây luôn duy trì chế độ khám chữa bệnh, khám chữa răng cho các em.
Với những cháu bị bệnh mãn tính, tôi gửi đi khám ở bệnh viện Pháp
Việt.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tới học cách quản lý của My Lan, tôi luôn mở
cửa và chia sẻ hết những gì mình làm.
Công ty trở thành "showroom" cho tỉnh, nhiều người thắc mắc thấy mình
đầu tư cảnh quan nhiều mà vẫn có lợi nhuận cao? Đơn giản là, hiệu quả,
năng suất nhân viên cao hơn nhiều so với chỗ khác vì họ yêu thích môi
trường làm việc.
Gần đây Viettel cũng vô học hỏi mô hình làm việc ở đây. Hy vọng Mỹ Lan
là chỗ người ta nhìn thấy, để thay đổi cách vận hành văn minh hơn,
giúp người Việt tự tin hơn với dân tộc mình.
Đó cũng chính là câu trả lời của riêng tôi. Rất mừng là bây giờ đôi
khi Nhà nước cũng đã nghe người ta nói khác, nghĩ khác. Chắc thời bao
cấp sẽ lần lần lui về quá khứ, cũng đỡ.
Đầu óc cũ làm người Việt không tin nhau
Khó khăn nhất trong 11 năm qua với ông là gì?
Với tôi kinh doanh bao giờ cũng thú vị, chỉ có những chuyện râu ria
làm mình bực. Thời mở cửa rồi mà chúng ta cứ dạy học sinh tư bản là kẻ
thù, tạo ra kẻ thù thì đất nước không phát triển được đâu.
Mấy năm đầu về Trà Vinh, tôi bị nghi ngờ "thằng này là tư bản", không
tốt đâu. Đến khi mình làm tốt quá người ta cũng đặt nghi vấn, ông này
trồng cây xanh nhiều quá có khi để… chôn hóa chất dưới đó!
Đôi khi cũng phát mệt với các cơ quan ban ngành. Cả tỉnh Trà Vinh chưa
có nơi nào ăn ngon và sạch như công ty mình, vậy mà người ta cũng kiếm
cách chê, tìm cho được một con muỗi. Nhiều khi cũng bị cảm xúc, tâm lý
tưởng khó có thể vượt qua.
Mình đang làm ăn ở Canada, mọi thứ đều minh bạch, rõ ràng, về đây sao
cực nhọc quá! Nhiều khi sang Canada, vợ tôi cản, bảo anh ở lại đi, về
làm chi nữa? Tôi phải rất khó khăn mới thuyết phục được gia đình.
Cũng may bây giờ đỡ rồi, mình làm đàng hoàng, đúng hơn cái người ta
cần nữa thì đâu có sợ gì.
Vậy thì theo ông, đâu là điểm yếu khiến cho Việt Nam chưa quy tụ được
nhiều người tài từ thế giới về cống hiến cho đất nước?
Đầu óc cũ, lạc hậu làm người Việt mình không tin nhau.
Một doanh nhân như tôi hàng ngày phải quan hệ với cơ quan ban ngành
Nhà nước, với doanh nghiệp xung quanh. Anh Alan Phan nói rất đúng,
doanh nhân Việt Nam phải đối diện với những quan hệ rất phức tạp, đôi
khi cũng nản chí.
Chẳng hạn, đụng với nhân viên quản lý môi trường, họ chẳng cần coi
mình làm gì, mà chỉ kiếm phong bì.
Tôi nhớ năm 2006, sau một năm công ty vận hành, tổ chức tiệc tất niên,
công bố doanh thu, tiền lời, tưởng được khen ngợi, ai ngờ chiều về,
công an kinh tế bắt 5 nhân viên tra hỏi, tại sao mới một năm công ty
đã có lời?
Cái gì mình làm khác mà tốt hơn người ta cũng bị nghi ngờ.
Nhưng mừng là càng ngày càng thấy khát vọng phát triển văn minh có ở
rất nhiều người trẻ. Lớp trẻ đòi hỏi phải cho phép họ nghĩ khác để làm
khác, cái khuôn nó trật sao cứ bắt người ta làm giống hoài, tại sao
vậy?
Giờ hội nhập, đất nước càng ngày càng có quan hệ gần gũi hơn quốc tế.
Từ Trà Vinh về Sài Gòn trước tốn 6 giờ giờ chỉ mất 3 giờ, đi đâu cũng
vô Internet được, trong khi nhiều nước không vậy đâu. Đồng thời Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư cũng thoải mái hơn, tôi tin Việt Nam sẽ tốt
hơn.
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
Là một nhà khoa học, con đường trở thành một nhà khoa học với 73 bằng
phát minh, sáng chế được công nhận ở nhiều quốc gia khác nhau, với ông
hẳn đầy chông gai?
Làm tại IBM, con đường khoa học của tôi dễ dàng lắm, vì tính mình đi
vô chỗ nào cũng muốn sửa, đưa ra những sáng chế mới là chuyện bình
thường, hàng ngày.
Nhưng con đường trở thành nhà khoa học mới chông gai. Tôi qua Canada
không cha mẹ, không nghề nghiệp, nói tiếng không ai hiểu. Đi học đại
học trở lại năm 1983, một mặt vừa lo kiếm tiền nuôi vợ con, vừa gửi về
nước nuôi cha mẹ. Bảy năm trời học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, ngày
nào cũng chỉ được ngủ hai ba giờ thôi.
Mùa hè người Canada phơi nắng ngoài trời rất thong thả, trong khi mình
phải thức dậy 2 giờ sáng để đi học, trưa phải đi làm thêm nhà hàng,
tối đi dạy. Nhiều khi muốn bỏ cuộc, phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều,
đầu bên trái nói học để có tiền lương cao hơn, khá hơn thay vì làm bồi
bàn. Nhưng đầu bên phải nói không học có chết đâu, vất vả quá thế này
làm gì...
Cuối cùng ráng cố gắng, ý chí giúp mình vượt qua.
Tôi luôn khuyên những người trẻ ráng cố gắng tìm cách này cách khác,
đừng bao giờ bỏ cuộc hết. Nếu bỏ cuộc không cách nào thành công.
Nhưng ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá. Cái gì cũng đổ thừa tại cha
mẹ nghèo, tại không có vốn, tại...
Nếu khởi nghiệp, cái vốn ngàn tỉ cha mẹ để lại chính là cái đầu nè,
suy nghĩ để đào ra mà xài.
Theo ông, Việt Nam có thể làm nên kỳ tích giống như Ấn Độ, Trung Quốc
trong lĩnh vực phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin?
Người Việt Nam sẽ hơn họ chứ. Nhưng có điều hãy đi từ 0 tới 1, chứ
đứng vội từ 1 tới N, phải phát triển công nghệ thay vì ăn cắp, bắt
chước.
Những nước đang phát triển đừng bắt chước các nước đã phát triển,
Thượng Hải của Trung Quốc là một ví dụ. Phải nghĩ khác, làm khác mới
được. Phải đặt câu hỏi có cách nào làm khác không, tốn ít năng lượng
hơn không, chứ đừng bắt chước. Người Việt Nam đã có gien thông minh,
vấn đề là có chịu làm hay không.
Vừa là nhà khoa học, vừa là doanh nhân, con người nghiên cứu trong ông
có bao giờ mâu thuẫn với con người kinh doanh?
Doanh nhân đi từ người làm khoa học dễ hơn, hiểu về công nghệ, sản
phẩm rõ ràng hơn, có suy nghĩ logic, khoa học hơn. Bản chất doanh nhân
là không bao giờ chấp nhận làm thuê, chỉ làm việc cho chính mình.
Không giả bộ làm doanh nhân được, làm doanh nhân phải là từ trong máu.
Cha tôi ngày xưa có nhiều vợ, ông bỏ mẹ con tôi khi tôi mới lên bảy
tuổi. Tám tuổi tôi đã lăn lưng ra đường kiếm sống, bán kem, bánh mì để
có đồng lời, máu kinh doanh thấm vào từ nhỏ.
Lớn lên, đi làm chỗ nào cũng thấy không hài lòng. Làm nhà hàng thấy
cái bếp tại sao không sạch, thấy ông chủ đối xử với nhân viên không
tốt. Tới chừng làm khoa học cảm thấy không đồng ý với cái mình đang
có. Bất cứ chuyện gì cũng thấy là có thể làm tốt hơn.
Doanh nhân cũng bắt đầu bằng cái muốn làm tốt hơn cho chính mình, và
cho cộng đồng xung quanh, tiền sẽ đi theo thôi. Còn muốn làm doanh
nhân để có nhiều tiền hơn thì chỉ gặp cá sấu hay cá mập.
Người Việt mình giống cá hồi vậy đó
Nhưng, ông có sợ tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế, khoa học sẽ
hủy hoại những giá trị cội nguồn của thiên nhiên, của văn hóa?
Tốc độ phát triển khoa học càng nhanh càng giúp cho trái đất tốt hơn,
nhưng phải nằm trong tay người tốt, bắt đầu từ trái tim, linh hồn tốt
đã.
Đốn gỗ đã đời ở đây rồi qua nước khác đốn, nuôi bò ô nhiễm quá người
dân chịu không nổi, thì thử hỏi làm giàu để làm gì? Làm doanh nhân là
muốn có nhiều tiền hay cũng muốn cả xung quanh tốt hơn?
Người ta có đủ cách để làm không tốt. Người nhiều tiền với người giàu
khác nhau. Người giàu biết họ giàu, có tài sản, tiền bạc, biết chia sẻ
tiền bạc tài sản. Việt Nam mình nhiều đại gia quá mà thiếu người giàu,
còn người trẻ lại nhiều người giàu hơn, dù họ ít tiền hơn đại gia.
Nhưng mình cũng mừng vì đã có những doanh nhân trẻ thực sự tốt, phát
triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ, bản lĩnh, không giống như thời
trước.
Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Có chứ. Trong gia đình không cô đơn, nhưng về xứ mình lại nhiều khi cô
đơn lắm, vì làm khác người ta quá.
Nhưng, dù sướng khổ thế nào ông vẫn ở lại quê hương?
Người Việt mình đẻ ra lớn lên vùng nào, đi đâu thì đi giống như cá hồi
vậy đó, cũng bơi ngược dòng để chết tại quê hương.
Tại sao Trà Vinh phì nhiêu thế, có biển đẹp thế lại bị coi là tỉnh
cùng, tỉnh nghèo?
Vấn đề là cái nhìn của mình thế nào thôi. Tôi muốn chứng minh điều ngược lại.
Theo Kim Yến (Bizlive)
Nld.com.vn
Tin theo chủ đề :
khu công nghiệp
,
môi trường xanh
,
Thung lũng Silicon
,
thiếu minh bạch
,
tiền lương cao
,
trái cây Việt Nam
,
thói quen xấu
,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
,
vốn nước ngoài
,
nguyễn thanh mỹ
Chia sẻ:
Ý kiến bạn đọc4 phản hồi
•
Thứ Hai, 30/11/2015 10:09
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty My Lan: "Trở
về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại
sao".
11 năm gây dựng một nơi được ví như "thung lũng Silicon" xanh, sạch
ngay trên một tỉnh nghèo Việt Nam, đó là con đường lội ngược dòng của
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Mỹ Lan, một
Việt kiều trở về từ Canada.
Nằm tại khu công nghiệp Long Đức, tỉnh Trà Vinh, Mỹ Lan là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên sản suất hóa chất và bản kẽm phục
vụ cho ngành in trong nước và xuất khẩu. Nơi đây đã sản xuất vật liệu
hóa chất quang điện tử đầu tiên ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành
nước thứ 12 trên toàn cầu sản xuất loại vật liệu này.
Ông Nguyễn Thanh Mỹ (giữa) trong một lần chào mừng nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết.
Ông Mỹ nói với BizLIVE:
Trở về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại sao".
Tại sao người Việt Nam thông minh mà thiếu sáng tạo? Tại sao vô vườn
không thấy trái cây Việt Nam, toàn giống của nước ngoài? Tại sao mỗi
lần vào, ra sân bay cũng bị vòi tiền? Tại sao nhà trường dạy đạo đức,
trách nhiệm, mà xã hội lại thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm, ra
đường không tuân theo luật giao thông, đâu cũng thấy rác rưởi?
Biết bao câu hỏi tại sao...
Tôi muốn gây dựng một thế giới xanh ở Mỹ Lan, để trả lời cho những câu
hỏi này, hơn là chỉ để kiếm tiền. Mình thử tạo một môi trường mới ngay
ở một mảnh đất nghèo của quê hương, để các em nhân viên có chỗ sáng
tạo, có trách nhiệm với cộng đồng, xem có làm được hay không?
Biến thói quen xấu thành tốt là khó nhất
Ông đã làm thế nào để biến những chàng trai, cô gái chân quê thành
những nhân viên có tác phong công nghiệp?
11 năm qua, để xây dựng một môi trường xanh hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn
quả không hề đơn giản. Ngay từ đầu tôi chủ trương nếu nghiên cứu sản
phẩm không xanh hơn không làm.
Hàng năm Mỹ Lan có vài sáng chế mới rất thân thiện với môi trường, từ
bản in dùng nhiều hóa chất, giờ chỉ cần nước với xà phòng thôi. Tập
đoàn kinh doanh minh bạch, thông suốt, đóng thuế hàng đầu, trước ký
hạn, không có ẩn số nào hết, đúng luật lệ.
Về con người, tôi chia thành hai đối tượng để tuyển dụng và đào tạo.
Thứ nhất là những người có tính năng động, cầu tiến, chuyên môn cao.
Loại người thứ hai muốn cầu tiến nhưng chuyên môn yếu. Chuyên môn có
thể dạy, nhưng tính cầu tiến, năng động không dạy được.
Làm thế nào ư? Tôi bắt đầu huấn luyện nhân viên từ cái… toa lét công
ty! Đa số nhân viên là nông dân địa phương, đâu dùng toa lét hiện đại
bao giờ. Phải dạy các em từ cách ngồi bàn cầu, rửa tay, chùi kiếng để
người kế bước vô lúc nào cũng sạch.
Biến thói quen xấu thành thói quen tốt là khó nhất.
Bên cạnh đó, tôi có kế hoạch hợp tác lâu dài với Đại học Trà Vinh để
sinh viên vừa học vừa làm ngay tại Mỹ Lan, có lương 2 triệu đồng/
tháng, cung cấp đồng phục, ăn uống đầy đủ. Riêng tôi đảm nhiệm luôn
vai trò Trưởng khoa Hóa học ứng dụng tại Đại học Trà Vinh.
Lớp học của tôi không có ghế, tôi chủ yếu dạy các em đặt câu hỏi. Mỗi
em phải có một câu hỏi mới được bước vào lớp.
Hiệu quả của những thay đổi này đến đâu?
Các em ngày càng tự hào hơn khi mặc đồng phục công ty, tự tin hơn với
cuộc sống, chính các em lại là người mang văn minh công ty về làng xóm
của mình, đó là động lực giúp tôi vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt
của môi trường làm ăn.
Mặc dù, cũng chính sự khác biệt đó đôi khi lại dẫn đến... hậu quả. Có
nhiều nhân viên nữ làm ở công ty đã bỏ chồng, bỏ người yêu do không
còn phù hợp với nhau nữa. Môi trường công ty văn minh hơn bên ngoài,
có tiền lương cao hơn bên ngoài, được tôn trọng hơn, vệ sinh sạch sẽ
hơn… đã khiến cho nhiều mối tình tan vỡ.
Cách giải quyết của tôi là khuyến khích các em cưới nhau. Hiện tôi đã
tổ chức đám cưới cho 90 cặp, chỉ có một cặp sau một năm rưỡi trở lại
với nhau đã ly thân, nhưng các em vẫn cùng nhau lo cho con. Hàng ngày
thấy các em có cuộc sống ổn định hơn, khỏe mạnh hơn, tôi rất mừng.
Ở đây luôn duy trì chế độ khám chữa bệnh, khám chữa răng cho các em.
Với những cháu bị bệnh mãn tính, tôi gửi đi khám ở bệnh viện Pháp
Việt.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tới học cách quản lý của My Lan, tôi luôn mở
cửa và chia sẻ hết những gì mình làm.
Công ty trở thành "showroom" cho tỉnh, nhiều người thắc mắc thấy mình
đầu tư cảnh quan nhiều mà vẫn có lợi nhuận cao? Đơn giản là, hiệu quả,
năng suất nhân viên cao hơn nhiều so với chỗ khác vì họ yêu thích môi
trường làm việc.
Gần đây Viettel cũng vô học hỏi mô hình làm việc ở đây. Hy vọng Mỹ Lan
là chỗ người ta nhìn thấy, để thay đổi cách vận hành văn minh hơn,
giúp người Việt tự tin hơn với dân tộc mình.
Đó cũng chính là câu trả lời của riêng tôi. Rất mừng là bây giờ đôi
khi Nhà nước cũng đã nghe người ta nói khác, nghĩ khác. Chắc thời bao
cấp sẽ lần lần lui về quá khứ, cũng đỡ.
Đầu óc cũ làm người Việt không tin nhau
Khó khăn nhất trong 11 năm qua với ông là gì?
Với tôi kinh doanh bao giờ cũng thú vị, chỉ có những chuyện râu ria
làm mình bực. Thời mở cửa rồi mà chúng ta cứ dạy học sinh tư bản là kẻ
thù, tạo ra kẻ thù thì đất nước không phát triển được đâu.
Mấy năm đầu về Trà Vinh, tôi bị nghi ngờ "thằng này là tư bản", không
tốt đâu. Đến khi mình làm tốt quá người ta cũng đặt nghi vấn, ông này
trồng cây xanh nhiều quá có khi để… chôn hóa chất dưới đó!
Đôi khi cũng phát mệt với các cơ quan ban ngành. Cả tỉnh Trà Vinh chưa
có nơi nào ăn ngon và sạch như công ty mình, vậy mà người ta cũng kiếm
cách chê, tìm cho được một con muỗi. Nhiều khi cũng bị cảm xúc, tâm lý
tưởng khó có thể vượt qua.
Mình đang làm ăn ở Canada, mọi thứ đều minh bạch, rõ ràng, về đây sao
cực nhọc quá! Nhiều khi sang Canada, vợ tôi cản, bảo anh ở lại đi, về
làm chi nữa? Tôi phải rất khó khăn mới thuyết phục được gia đình.
Cũng may bây giờ đỡ rồi, mình làm đàng hoàng, đúng hơn cái người ta
cần nữa thì đâu có sợ gì.
Vậy thì theo ông, đâu là điểm yếu khiến cho Việt Nam chưa quy tụ được
nhiều người tài từ thế giới về cống hiến cho đất nước?
Đầu óc cũ, lạc hậu làm người Việt mình không tin nhau.
Một doanh nhân như tôi hàng ngày phải quan hệ với cơ quan ban ngành
Nhà nước, với doanh nghiệp xung quanh. Anh Alan Phan nói rất đúng,
doanh nhân Việt Nam phải đối diện với những quan hệ rất phức tạp, đôi
khi cũng nản chí.
Chẳng hạn, đụng với nhân viên quản lý môi trường, họ chẳng cần coi
mình làm gì, mà chỉ kiếm phong bì.
Tôi nhớ năm 2006, sau một năm công ty vận hành, tổ chức tiệc tất niên,
công bố doanh thu, tiền lời, tưởng được khen ngợi, ai ngờ chiều về,
công an kinh tế bắt 5 nhân viên tra hỏi, tại sao mới một năm công ty
đã có lời?
Cái gì mình làm khác mà tốt hơn người ta cũng bị nghi ngờ.
Nhưng mừng là càng ngày càng thấy khát vọng phát triển văn minh có ở
rất nhiều người trẻ. Lớp trẻ đòi hỏi phải cho phép họ nghĩ khác để làm
khác, cái khuôn nó trật sao cứ bắt người ta làm giống hoài, tại sao
vậy?
Giờ hội nhập, đất nước càng ngày càng có quan hệ gần gũi hơn quốc tế.
Từ Trà Vinh về Sài Gòn trước tốn 6 giờ giờ chỉ mất 3 giờ, đi đâu cũng
vô Internet được, trong khi nhiều nước không vậy đâu. Đồng thời Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư cũng thoải mái hơn, tôi tin Việt Nam sẽ tốt
hơn.
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
Là một nhà khoa học, con đường trở thành một nhà khoa học với 73 bằng
phát minh, sáng chế được công nhận ở nhiều quốc gia khác nhau, với ông
hẳn đầy chông gai?
Làm tại IBM, con đường khoa học của tôi dễ dàng lắm, vì tính mình đi
vô chỗ nào cũng muốn sửa, đưa ra những sáng chế mới là chuyện bình
thường, hàng ngày.
Nhưng con đường trở thành nhà khoa học mới chông gai. Tôi qua Canada
không cha mẹ, không nghề nghiệp, nói tiếng không ai hiểu. Đi học đại
học trở lại năm 1983, một mặt vừa lo kiếm tiền nuôi vợ con, vừa gửi về
nước nuôi cha mẹ. Bảy năm trời học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, ngày
nào cũng chỉ được ngủ hai ba giờ thôi.
Mùa hè người Canada phơi nắng ngoài trời rất thong thả, trong khi mình
phải thức dậy 2 giờ sáng để đi học, trưa phải đi làm thêm nhà hàng,
tối đi dạy. Nhiều khi muốn bỏ cuộc, phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều,
đầu bên trái nói học để có tiền lương cao hơn, khá hơn thay vì làm bồi
bàn. Nhưng đầu bên phải nói không học có chết đâu, vất vả quá thế này
làm gì...
Cuối cùng ráng cố gắng, ý chí giúp mình vượt qua.
Tôi luôn khuyên những người trẻ ráng cố gắng tìm cách này cách khác,
đừng bao giờ bỏ cuộc hết. Nếu bỏ cuộc không cách nào thành công.
Nhưng ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá. Cái gì cũng đổ thừa tại cha
mẹ nghèo, tại không có vốn, tại...
Nếu khởi nghiệp, cái vốn ngàn tỉ cha mẹ để lại chính là cái đầu nè,
suy nghĩ để đào ra mà xài.
Theo ông, Việt Nam có thể làm nên kỳ tích giống như Ấn Độ, Trung Quốc
trong lĩnh vực phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin?
Người Việt Nam sẽ hơn họ chứ. Nhưng có điều hãy đi từ 0 tới 1, chứ
đứng vội từ 1 tới N, phải phát triển công nghệ thay vì ăn cắp, bắt
chước.
Những nước đang phát triển đừng bắt chước các nước đã phát triển,
Thượng Hải của Trung Quốc là một ví dụ. Phải nghĩ khác, làm khác mới
được. Phải đặt câu hỏi có cách nào làm khác không, tốn ít năng lượng
hơn không, chứ đừng bắt chước. Người Việt Nam đã có gien thông minh,
vấn đề là có chịu làm hay không.
Vừa là nhà khoa học, vừa là doanh nhân, con người nghiên cứu trong ông
có bao giờ mâu thuẫn với con người kinh doanh?
Doanh nhân đi từ người làm khoa học dễ hơn, hiểu về công nghệ, sản
phẩm rõ ràng hơn, có suy nghĩ logic, khoa học hơn. Bản chất doanh nhân
là không bao giờ chấp nhận làm thuê, chỉ làm việc cho chính mình.
Không giả bộ làm doanh nhân được, làm doanh nhân phải là từ trong máu.
Cha tôi ngày xưa có nhiều vợ, ông bỏ mẹ con tôi khi tôi mới lên bảy
tuổi. Tám tuổi tôi đã lăn lưng ra đường kiếm sống, bán kem, bánh mì để
có đồng lời, máu kinh doanh thấm vào từ nhỏ.
Lớn lên, đi làm chỗ nào cũng thấy không hài lòng. Làm nhà hàng thấy
cái bếp tại sao không sạch, thấy ông chủ đối xử với nhân viên không
tốt. Tới chừng làm khoa học cảm thấy không đồng ý với cái mình đang
có. Bất cứ chuyện gì cũng thấy là có thể làm tốt hơn.
Doanh nhân cũng bắt đầu bằng cái muốn làm tốt hơn cho chính mình, và
cho cộng đồng xung quanh, tiền sẽ đi theo thôi. Còn muốn làm doanh
nhân để có nhiều tiền hơn thì chỉ gặp cá sấu hay cá mập.
Người Việt mình giống cá hồi vậy đó
Nhưng, ông có sợ tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế, khoa học sẽ
hủy hoại những giá trị cội nguồn của thiên nhiên, của văn hóa?
Tốc độ phát triển khoa học càng nhanh càng giúp cho trái đất tốt hơn,
nhưng phải nằm trong tay người tốt, bắt đầu từ trái tim, linh hồn tốt
đã.
Đốn gỗ đã đời ở đây rồi qua nước khác đốn, nuôi bò ô nhiễm quá người
dân chịu không nổi, thì thử hỏi làm giàu để làm gì? Làm doanh nhân là
muốn có nhiều tiền hay cũng muốn cả xung quanh tốt hơn?
Người ta có đủ cách để làm không tốt. Người nhiều tiền với người giàu
khác nhau. Người giàu biết họ giàu, có tài sản, tiền bạc, biết chia sẻ
tiền bạc tài sản. Việt Nam mình nhiều đại gia quá mà thiếu người giàu,
còn người trẻ lại nhiều người giàu hơn, dù họ ít tiền hơn đại gia.
Nhưng mình cũng mừng vì đã có những doanh nhân trẻ thực sự tốt, phát
triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ, bản lĩnh, không giống như thời
trước.
Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Có chứ. Trong gia đình không cô đơn, nhưng về xứ mình lại nhiều khi cô
đơn lắm, vì làm khác người ta quá.
Nhưng, dù sướng khổ thế nào ông vẫn ở lại quê hương?
Người Việt mình đẻ ra lớn lên vùng nào, đi đâu thì đi giống như cá hồi
vậy đó, cũng bơi ngược dòng để chết tại quê hương.
Tại sao Trà Vinh phì nhiêu thế, có biển đẹp thế lại bị coi là tỉnh
cùng, tỉnh nghèo?
Vấn đề là cái nhìn của mình thế nào thôi. Tôi muốn chứng minh điều ngược lại.
Theo Kim Yến (Bizlive)
Nld.com.vn
Tin theo chủ đề :
khu công nghiệp
,
môi trường xanh
,
Thung lũng Silicon
,
thiếu minh bạch
,
tiền lương cao
,
trái cây Việt Nam
,
thói quen xấu
,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
,
vốn nước ngoài
,
nguyễn thanh mỹ
Chia sẻ:
Ý kiến bạn đọc4 phản hồi
•
Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015
Tran Huutoan shared an album with you.
| You are invited to view Vu Duy's photo album: K9(C22) HM 14-11-2015
If you are having problems viewing this email, copy and paste the following into your browser: https://picasaweb.google.com/lh/sredir?uname=105892148570372714809&target=ALBUM&id=6217360174904604305&authkey=Gv1sRgCLX1wMacieH3zQE&feat=email To share your photos or receive notification when your friends share photos, get your own free Picasa Web Albums account. |
Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015
Re: Những người Việt thành tỷ phú trên đất Mỹ
Những người Việt thành tỷ phú trên đất Mỹ
Câu chuyện về những người Việt Nam ở nước ngoài có lẽ là câu
chuyện chưa bao giờ kể hết. Có những góc khuất còn nhiều
vất vả nhưng cũng có những tấm gương vươn lên, thành công, ghi
dấu ấn khiến người người nể phục. Thậm chí họ còn nhận
được cả sự ngưỡng mộ và kính trọng từ bạn bè khắp nam
châu.
Cuộc sống phát triển, những khoảng cách như được kéo gần
lại, tài năng, bản lĩnh của con người cũng có dịp được phát
huy và tỏa sáng. Trên thế giới, có rất nhiều tỷ phú gốc
Việt đã chứng minh được thành công của họ, đặc biệt là ở
ngay chính những thiên đường kinh doanh của đất nước sở tại.
Bằng khả năng, sự nhạy bén trong kinh doanh, tư duy linh hoạt
những tỷ phú này đã khiến người dân Mỹ, giới kinh doanh ở
nơi được đánh giá là sôi động bậc nhất thế giới phải kiêng
dè.
Chính E.Chu - Người "đạo diễn" kế hoạch thu mua tập đoàn Dell
Cái tên Chính E.Chu là một cái tên vô cùng quen thuộc trong
giới đầu tư tài chính Mỹ
Hiện tại Chính E.Chu đang là giám đốc cấp cao của tập đoàn
đầu tư tài chính Blackstone (Mỹ). Chính E.Chu sở hữu trong tay
số tài sản lên tới 1,1 tỷ USD. Biệt tài mà mọi người nhớ
tới ông chính là khà năng "đạo diễn" hàng loạt vụ thương
thuyết cho Blackstone. Nhiều người nói đùa rằng "không có
thương vụ nào tuột khỏi tay Chính E.Chu".
Chính E. Chu (Chính Chu) sinh năm 1966 tại Việt Nam. Năm 1975, ông
cùng gia đình di cư sang Mỹ với vốn liếng chỉ vài trăm USD. Vừa đi
học, ông Chu vừa đi bán sách lẻ và giao đến tận nhà. Chu có bằng cử
nhân Tài chính tại Đại học Buffalo, một trường công tại New York (Mỹ).
Bằng khả năng của mình, Chính E.Chu đã lần lượt "thu mua" rất
nhiều tập đoàn, công ty... thu lại khoản lợi nhuận vô cùng
béo bở và trở thành một cái tên khiến phố Wall phải kiêng
dè.
Bài học thành công của Chính E.Chu chính là sự kiên trì theo
đuổi mục tiêu. Theo ông, chỉ cần bạn có mục tiêu và kiên trì
theo đuổi nó thì thành công sẽ không quay lưng lại với bạn.
Chính E.Chu được đánh giá cao ở khả năng phân tích và nhạy
bén về tài chính. Ông còn khiến phố Wall phải kiêng nể khi
trở thành "đạo diễn" cho kế hoạch thu mua lại Tập đoàn máy tính
Dell với giá khoảng 25 tỷ USD.
Chính E.Chu chồng của ca sĩ Hà Phương (thứ hai trong số 3 chị em Cẩm
Ly, Minh Tuyết, Hà Phương). Ngoài công việc kinh doanh, hai vợ chồng
Chính Chu còn tổ chức và điều hành một số hoạt động từ thiện và có 2
quỹ riêng: Vietnam Relief Effort và Ha Phuong Foundation. Cả hai vợ
chồng thường xuyên về Việt Nam tham gia các hoạt động từ
thiện ở nhiều vùng quê nghèo.
Trung Dung - Điển hình cho "Giấc mơ Mỹ"
Năm 1984, Trung Dung mới 17 tuổi và đến Mỹ với 2 USD trong tay.
Tuy nhiên, ông đã khiến cho cả nước Mỹ phải e dè và nể phục
vì khả năng vươn lên của mình. Với khả năng kinh doanh, sự
nhạy bén trong lĩnh vực công nghệ, ý chí không sợ khổ, sợ
khó đã giúp Trung Dung trở thành một điển hình trong cuốn sách
Giấc mơ Mỹ của tác giả Dan Rather.
Để sống và hoàn thành việc học Trung Dung đã phải lao động
một cách cật lực và làm bất kỳ việc nào có thể. Mặc dù
vậy, chàng thanh niên nghèo năm nào vẫn hoàn thành chương
trình tiến sĩ và bắt đầu làm việc khởi điểm tại công ty
Công ty phần mềm thương mại điện tử OpenMarket.
Một thời gian sau Trung Dung rời OpenMarket để thành lập công ty
OnDisplay vào năm 1996. Với thành công của mình, Trung Dung đã
khiến phố Wall kiêng dè về khả năng phát triển trong ngành
Internet Mỹ, vốn là thế mạnh của đất nước này.
Tính đến năm 2000, Trung Dung được cả nước Mỹ biến đến với
món "hời" lợi nhuận gần 1,8 tỉ USD từ thương vụ bán cổ phần
của OnDisplay.
Charlie Tôn Quý - Ông hoàng của nghề nail
Charlie Tôn Quý trong buổi khai trương cửa hàng (đứng thứ 2 từ
trái sang).
Người ta nói rằng việc làm dễ kiếm ra tiền nhất của người
Việt tại Mỹ chính là làm nail (nghề chăm sóc móng tay, móng
chân). Tuy nhiên, Charlie Tôn Quý lại không muốn nghề nghiệp này
chỉ là một trong những nghề tạm bợ, ông đã khiến nó trở
thành một "thiên đường hái ra tiền".
Với khởi điểm chỉ là một bài tiệm nail đầu tiên, Charlie Tôn
Quý đã bắt đầu kế hoạch vươn xa hơn nữa của mình bằng cách
đưa tiệm nail vào các siêu thị, cửa hàng...
Một thời gian sau, gần 1,200 cửa hàng nail của Charlie Tôn Quý
đã có mặt trên toàn nước Mỹ. Charlie Tôn Quý đã thành công khi
đưa thương hiệu Regal Nails trở nên nổi tiếng khắp toàn nước
Mỹ. Không những thế, ông cũng giúp rất nhiều lao động Việt
Nam có việc làm trong các cửa hàng nail của mình.
Hiện tại, với gần 1.200 cửa hàng nail, thu nhập bình quân của
Regal Nails là khoảng 500 triệu USD mỗi năm. Không dừng lại tại
đó, Regal Nails đang tham vọng đưa thương hiệu ra toàn thế giới.
Theo soha.vn
On 11/10/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
>
>
> Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
> nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
> các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
> Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
> kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
> cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
> 2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
> nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
> gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
> khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
> đỉnh.
>
> Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
> kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
>
> Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
>
> Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
> Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
> Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
> 450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
> này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
>
> Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
> từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
> tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
> tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
> được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
> khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
> hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
>
> Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
> nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
> nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
> cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
> không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
> ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
> người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
>
> Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
> cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
> gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
> và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
> những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
>
> Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
> chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
> tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
>
> Chào đón những tài năng nhập cư
>
> Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
> phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
> Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
> luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
> cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
> gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
> tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
> tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
> 60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
> nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
> nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
> nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
> biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
> sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
>
> Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
>
> Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
> lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
> vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
> sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
> nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
> vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
> Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
> chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
> của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
> Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
> được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
> của Chính phủ.
>
> Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
> hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
> qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
> lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
> trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
> trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
>
> Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
> Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
> hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
> nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
> kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
> của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
> phủ), Yago nói.
>
> Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
> quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
> hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
> khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
> nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
> các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
> nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
> phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
> độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
> nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
> ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
>
> Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
> cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
> tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
> thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
> những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
> tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
> nghệ.
>
> Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
>
> Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
> toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
> Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
> Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
> lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
> Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
> người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
> Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
> giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
> tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
> tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
> khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
> địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
> đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
> vững vàng.
>
> Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
> trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
> có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
> targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
> trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
> phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
> ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
> rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
> chút.
>
> Bài học rút ra
>
> Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
> trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
> đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
> hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
> công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
> biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
> chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
> hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
> khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
> cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
>
> Thanh Xuân lược dịch
>
> http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
>
> ---
>
> 1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
> Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
> Cuộc chiến tháng 10.
>
Câu chuyện về những người Việt Nam ở nước ngoài có lẽ là câu
chuyện chưa bao giờ kể hết. Có những góc khuất còn nhiều
vất vả nhưng cũng có những tấm gương vươn lên, thành công, ghi
dấu ấn khiến người người nể phục. Thậm chí họ còn nhận
được cả sự ngưỡng mộ và kính trọng từ bạn bè khắp nam
châu.
Cuộc sống phát triển, những khoảng cách như được kéo gần
lại, tài năng, bản lĩnh của con người cũng có dịp được phát
huy và tỏa sáng. Trên thế giới, có rất nhiều tỷ phú gốc
Việt đã chứng minh được thành công của họ, đặc biệt là ở
ngay chính những thiên đường kinh doanh của đất nước sở tại.
Bằng khả năng, sự nhạy bén trong kinh doanh, tư duy linh hoạt
những tỷ phú này đã khiến người dân Mỹ, giới kinh doanh ở
nơi được đánh giá là sôi động bậc nhất thế giới phải kiêng
dè.
Chính E.Chu - Người "đạo diễn" kế hoạch thu mua tập đoàn Dell
Cái tên Chính E.Chu là một cái tên vô cùng quen thuộc trong
giới đầu tư tài chính Mỹ
Hiện tại Chính E.Chu đang là giám đốc cấp cao của tập đoàn
đầu tư tài chính Blackstone (Mỹ). Chính E.Chu sở hữu trong tay
số tài sản lên tới 1,1 tỷ USD. Biệt tài mà mọi người nhớ
tới ông chính là khà năng "đạo diễn" hàng loạt vụ thương
thuyết cho Blackstone. Nhiều người nói đùa rằng "không có
thương vụ nào tuột khỏi tay Chính E.Chu".
Chính E. Chu (Chính Chu) sinh năm 1966 tại Việt Nam. Năm 1975, ông
cùng gia đình di cư sang Mỹ với vốn liếng chỉ vài trăm USD. Vừa đi
học, ông Chu vừa đi bán sách lẻ và giao đến tận nhà. Chu có bằng cử
nhân Tài chính tại Đại học Buffalo, một trường công tại New York (Mỹ).
Bằng khả năng của mình, Chính E.Chu đã lần lượt "thu mua" rất
nhiều tập đoàn, công ty... thu lại khoản lợi nhuận vô cùng
béo bở và trở thành một cái tên khiến phố Wall phải kiêng
dè.
Bài học thành công của Chính E.Chu chính là sự kiên trì theo
đuổi mục tiêu. Theo ông, chỉ cần bạn có mục tiêu và kiên trì
theo đuổi nó thì thành công sẽ không quay lưng lại với bạn.
Chính E.Chu được đánh giá cao ở khả năng phân tích và nhạy
bén về tài chính. Ông còn khiến phố Wall phải kiêng nể khi
trở thành "đạo diễn" cho kế hoạch thu mua lại Tập đoàn máy tính
Dell với giá khoảng 25 tỷ USD.
Chính E.Chu chồng của ca sĩ Hà Phương (thứ hai trong số 3 chị em Cẩm
Ly, Minh Tuyết, Hà Phương). Ngoài công việc kinh doanh, hai vợ chồng
Chính Chu còn tổ chức và điều hành một số hoạt động từ thiện và có 2
quỹ riêng: Vietnam Relief Effort và Ha Phuong Foundation. Cả hai vợ
chồng thường xuyên về Việt Nam tham gia các hoạt động từ
thiện ở nhiều vùng quê nghèo.
Trung Dung - Điển hình cho "Giấc mơ Mỹ"
Năm 1984, Trung Dung mới 17 tuổi và đến Mỹ với 2 USD trong tay.
Tuy nhiên, ông đã khiến cho cả nước Mỹ phải e dè và nể phục
vì khả năng vươn lên của mình. Với khả năng kinh doanh, sự
nhạy bén trong lĩnh vực công nghệ, ý chí không sợ khổ, sợ
khó đã giúp Trung Dung trở thành một điển hình trong cuốn sách
Giấc mơ Mỹ của tác giả Dan Rather.
Để sống và hoàn thành việc học Trung Dung đã phải lao động
một cách cật lực và làm bất kỳ việc nào có thể. Mặc dù
vậy, chàng thanh niên nghèo năm nào vẫn hoàn thành chương
trình tiến sĩ và bắt đầu làm việc khởi điểm tại công ty
Công ty phần mềm thương mại điện tử OpenMarket.
Một thời gian sau Trung Dung rời OpenMarket để thành lập công ty
OnDisplay vào năm 1996. Với thành công của mình, Trung Dung đã
khiến phố Wall kiêng dè về khả năng phát triển trong ngành
Internet Mỹ, vốn là thế mạnh của đất nước này.
Tính đến năm 2000, Trung Dung được cả nước Mỹ biến đến với
món "hời" lợi nhuận gần 1,8 tỉ USD từ thương vụ bán cổ phần
của OnDisplay.
Charlie Tôn Quý - Ông hoàng của nghề nail
Charlie Tôn Quý trong buổi khai trương cửa hàng (đứng thứ 2 từ
trái sang).
Người ta nói rằng việc làm dễ kiếm ra tiền nhất của người
Việt tại Mỹ chính là làm nail (nghề chăm sóc móng tay, móng
chân). Tuy nhiên, Charlie Tôn Quý lại không muốn nghề nghiệp này
chỉ là một trong những nghề tạm bợ, ông đã khiến nó trở
thành một "thiên đường hái ra tiền".
Với khởi điểm chỉ là một bài tiệm nail đầu tiên, Charlie Tôn
Quý đã bắt đầu kế hoạch vươn xa hơn nữa của mình bằng cách
đưa tiệm nail vào các siêu thị, cửa hàng...
Một thời gian sau, gần 1,200 cửa hàng nail của Charlie Tôn Quý
đã có mặt trên toàn nước Mỹ. Charlie Tôn Quý đã thành công khi
đưa thương hiệu Regal Nails trở nên nổi tiếng khắp toàn nước
Mỹ. Không những thế, ông cũng giúp rất nhiều lao động Việt
Nam có việc làm trong các cửa hàng nail của mình.
Hiện tại, với gần 1.200 cửa hàng nail, thu nhập bình quân của
Regal Nails là khoảng 500 triệu USD mỗi năm. Không dừng lại tại
đó, Regal Nails đang tham vọng đưa thương hiệu ra toàn thế giới.
Theo soha.vn
On 11/10/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
>
>
> Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
> nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
> các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
> Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
> kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
> cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
> 2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
> nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
> gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
> khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
> đỉnh.
>
> Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
> kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
>
> Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
>
> Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
> Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
> Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
> 450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
> này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
>
> Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
> từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
> tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
> tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
> được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
> khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
> hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
>
> Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
> nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
> nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
> cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
> không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
> ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
> người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
>
> Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
> cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
> gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
> và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
> những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
>
> Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
> chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
> tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
>
> Chào đón những tài năng nhập cư
>
> Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
> phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
> Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
> luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
> cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
> gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
> tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
> tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
> 60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
> nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
> nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
> nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
> biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
> sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
>
> Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
>
> Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
> lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
> vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
> sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
> nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
> vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
> Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
> chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
> của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
> Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
> được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
> của Chính phủ.
>
> Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
> hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
> qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
> lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
> trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
> trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
>
> Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
> Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
> hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
> nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
> kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
> của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
> phủ), Yago nói.
>
> Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
> quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
> hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
> khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
> nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
> các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
> nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
> phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
> độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
> nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
> ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
>
> Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
> cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
> tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
> thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
> những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
> tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
> nghệ.
>
> Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
>
> Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
> toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
> Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
> Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
> lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
> Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
> người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
> Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
> giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
> tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
> tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
> khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
> địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
> đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
> vững vàng.
>
> Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
> trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
> có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
> targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
> trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
> phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
> ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
> rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
> chút.
>
> Bài học rút ra
>
> Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
> trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
> đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
> hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
> công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
> biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
> chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
> hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
> khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
> cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
>
> Thanh Xuân lược dịch
>
> http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
>
> ---
>
> 1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
> Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
> Cuộc chiến tháng 10.
>
Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel
Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.
Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
Chào đón những tài năng nhập cư
Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.
Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.
Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.
Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.
Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.
Bài học rút ra
Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
Thanh Xuân lược dịch
http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
---
1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.
Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.
Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
Chào đón những tài năng nhập cư
Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.
Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.
Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.
Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.
Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.
Bài học rút ra
Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
Thanh Xuân lược dịch
http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
---
1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)

