Chào mừng các bạn đến với blog cựu học sinh trường Phú Nhuận năm học 1981 -1984. Hy vọng các bạn sẽ tìm được những điều bổ ích từ trang blog. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ các bạn
Trang chủ
DANH MUC
Muc luc
Giới thiệuTin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Amazon
Yahoo
Youtube

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015
Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp Việt
Tổng Hợp: Thu Thảo (Theo Israel21c) 02 tháng 4, 2015
Trên đất sa mạc, Israel đã nhanh chóng thành nhà xuất khẩu lương thực
hàng đầu của thế giói. Tại sao?
Lý do là vì người Israel đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và liên tục
vận dụng những công nghệ tiên tiến nhất để tạo nên những điều thần kỳ
cho nền nông nghiệp nước nhà. Không những thế, sự phát triển của
Israel thậm chí đã làm thay đổi diện mạo nền nông nghiệp thế giới.
Tưới nhỏ giọt
Nước và đất là hai yếu tố không thể thiếu đối với trồng trọt. Trong
khi đó, lượng mưa trung bình của Israel chỉ khoảng 50mm/năm, phần lớn
diện tích là sa mạc. Cái khó đã khiến những người dân Do Thái trăn trở
và sáng tạo nên hệ thống tưới nước nhỏ giọt.
Với công nghệ này, chỉ có một lượng giọt nước nhất định được đưa qua
đường ống và dẫn vào gốc cây mỗi ngày, vừa đảm bảo sự sinh trưởng của
cây, vừa tiết kiệm nước một cách tối đa.
Và cũng nhờ tưới nhỏ giọt, sản phẩm công nghệ của Israel đã giúp 700
hộ nông dân ở Senegal canh tác 3 vụ/năm thay vì chỉ một vụ vào mùa mưa
như trước đây. Kết quả tương tự cũng đã đạt được tại Kenya, Nam Phi,
Benin và Nigeria – những quốc gia có điều kiện khô hạn tương tự
Israel.
Túi khổng lồ bảo quản lương thực
Sau mỗi một vụ thu hoạch, khoảng 50% ngũ cốc và 100% sản lượng đậu bị
côn trùng, ẩm mốc tấn công khiến chất lượng lương thực bị suy giảm
nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành
Để giải quyết vấn đề này, người Israel đã nghĩ việc dùng một chiếc túi
khổng lồ, đơn giản và rẻ tiền, nhưng có công dụng bảo quản lương thực,
tránh tiếp xúc với không khí và độ ẩm.
Hiện, những chiếc túi như thế này đã và đang được sử dụng rộng rãi tại
nhiều nước ở châu Phi, Trung Đông.
Diệt sâu bọ bằng phương pháp sinh học
Dựa trên đặc điểm sinh học tự nhiên của các loài vật, các kỹ sư Israel
đã lai tạo ra các giống côn trùng có ích cho quá trình sản xuất nông
nghiệp.
Cụ thể, sau khi lai tạo thành công, những con côn trùng này sẽ được
thả vào những khu vườn, những nông trang để chúng tự do tiêu diệt các
loài sâu, bọ sống ký sinh, tàn phá thực vật.
Một ví dụ điển hình là giống nhện màu cam đã giúp những khu vườn dâu
tây ở Mỹ không bị sâu bọ "quấy rầy" và giúp nông dân Israel giảm tới
75% lượng thuốc trừ sâu so với trước đây.
Chăn bò bằng… máy tính
Israel là quốc gia đầu tiên trên thế giới phát triển công nghệ chăn
nuôi bò sữa tập trung theo quy mô nông nghiệp. Theo đó, từ việc cho
ăn, vệ sinh chuồng, vắt sữa… đều được quản lý, giám sát thông qua hệ
thống máy tính.
Một số quốc gia trên thế giới đã và đang học tập công nghệ này.
Giải pháp nông nghiệp trực tuyến
Hế thống kiến thức nông nghiệp trực tuyến (AKOL) ra đời với mục đích
giúp nông dân dễ dàng tiếp cận với các thông tin về nông nghiệp, thị
trường, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi…
Ngoài ra, bằng việc truy cập vào hệ thống, nông dân còn được tư vấn,
giải đáp trực tuyến những thắc mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình
sản xuất.
Khoai tây giữa sa mạc
Khoai tây thông thường chỉ trồng được ở những nơi có khí hậu lạnh và
bắt buộc phải tưới bằng nước ngọt. Nếu vậy, Israel chỉ còn biết nhập
khẩu khoai tây.
Nhưng không, các nhà khoa học Israel đã lai được giống khoai tây mới
chịu được khí hậu nóng, khô và tưới bằng nước mặn, thích hợp trồng ở
sa mạc. Giải pháp mới này thậm chí đã giúp Israel xuất khẩu khoai tây.
Nông nghiệp Israel trong thế kỷ 21
Báo Tia Sáng – 27/07/2010
Nền nông nghiệp Israel nổi tiếng trên toàn thế giới đang phải làm gì
để đối mặt với những khó khăn ngày càng gia tăng ở thế kỷ 21? Bài viết
dưới đây, lược dịch từ một bài báo của Jon Fedler, Tổng biên tập tạp
chí Agrictech giải thích các lý do, trong đó chủ yếu là vai trò của
khoa học và công nghệ đã mang lại thành công không chỉ ở hiện tại mà
cả tương lai cho đất nước này.
Vào khoảng năm 2020, dân số của Israel dự tính sẽ tăng 42% so với hiện
nay, đạt con số 8,5 triệu người. Nhu cầu về sản xuất nông nghiệp cũng
như các sản phẩm nông nghiệp lúc đó sẽ gia tăng đáng kể. Cùng với đó,
diện tích đất đô thị và lượng nước sử dụng chung của cả đất nước cũng
ngày một lớn hơn, đặt ra nhiều vấn đề đối với phát triển nông nghiệp.
Để đối phó với tình trạng này, Israel tiếp tục phải nghiên cứu và đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
Theo một nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Israel, vào năm 2020, lượng
nước tưới tiêu cho nông nghiệp của nước này chỉ còn một nửa (700 triệu
mét khối/năm) và diện tích đất dành cho nông nghiệp cũng giảm 18% so
với hiện nay (360.000 ha). Như vậy, để đạt một sản lượng nông nghiệp
tăng khoảng 48% so với mức của năm 1993, nông nghiệp Israel cần có mức
tăng trưởng thực khoảng 1,5%/năm.
Nông nghiệp của Israel đã có mức tăng trưởng khá ổn định (trừ một giai
đoạn ngắn của những năm 1980), và đóng một vai trò quan trong trong
nền kinh tế của nước này. Hiện nay, nông nghiệp đóng góp 2% vào Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) và chiếm khoảng 3,5% xuất khẩu của Israel.
Doanh thu nông nghiệp của Israel vào năm 2000 đạt mức 2 tỉ USD trong
đó 70% thuộc về xuất khẩu.
Thành công của nông nghiệp Israel nhờ sự kiên định và sáng tạo liên
tục của các nhà khoa học cũng như nông dân đất nước này. Đặc biệt
trong điều kiện thời tiết và địa hình không thuận lợi của Israel (hơn
một nửa diện tích đất là sa mạc và đất nước có nhiều loại hình khí hậu
rất đa dạng, khác biệt).
Nghiên cứu và phát triển
Sản lượng nông nghiệp liên tục tăng trưởng ở Israel mặc dầu các điều
kiện khắc nghiệt về nước tưới tiêu và hạn chế về diện tích đất canh
tác. Đây là kết quả của một "hiện tượng Israel", có một không hai trên
thế giới dựa trên sự hợp tác tích cực và chặt chẽ giữa các nhà nghiên
cứu, hệ thống mở rộng nông nghiệp, nông dân, các dịch vụ và công
nghiệp phụ trợ.
Các ứng dụng R&D có định hướng trong nông nghiệp đã được tiến hành tại
Israel từ đầu thế kỷ 20. Lĩnh vực nông nghiệp hiện nay của nước này
hầu như gắn chặt với khoa học và công nghệ, với các tổ chức Chính phủ,
các viện nghiên cứu, công nghiệp và hợp tác xã. Tất cả phối hợp với
nhau nhằm tìm kiếm các giải pháp để giải quyết các vấn đề trong nông
nghiệp mà nước này gặp phải. Đối mặt với hàng loạt các vấn đề, từ
giống di truyền, kiểm soát bệnh dịch tới canh tác trên đất cằn, R&D
trong nông nghiệp của Israel đã phát triển các công nghệ để tạo ra sự
biến chuyển ngoạn mục không chỉ trong số lượng mà cả chất lượng các
sản phẩm nông nghiệp của đất nước. Chìa khóa của thành công này là nhờ
các thông tin hai chiều giữa bản thân các nhà khoa học và các nhà
nông. Thông qua mạng lưới dịch vụ mở rộng nông nghiệp (và sự tích cực
tham gia của nhà nông vào toàn bộ tiến trình R&D), các vấn đề trong
nông nghiệp được chuyển trực tiếp tới các nhà nghiên cứu để kiếm tìm
giải pháp. Từ đó, các kết quả nghiên cứu khoa học cũng được nhanh
chóng chuyển tới đồng ruộng để thử nghiệm, thích nghi và điều chỉnh.
Động lực muốn đạt mức tối ưu trong sản lượng nông nghiệp và chất lượng
giống đã dẫn tới việc ra đời các loại giống mới, đối với giống cây
trồng hoặc súc vật nuôi, tới các cải tiến trong tưới tiêu, phân bón,
thiết bị nông nghiệp, tự động hóa, hóa học, canh tác và thu hoạch. Nhờ
vậy, các phát kiến khoa học và công nghệ này không chỉ phục vụ nông
nghiệp trong nước mà rất nhiều trong số đó đã được xuất khẩu ra nước
ngoài.
Cơ giới hóa và công nghệ nông nghiệp
Nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng, cải thiện chất lượng và
tiết kiệm nhân công, các sáng chế về máy móc nông nghiệp cũng như
thiết bị điện tử phụ trợ đã được ra đời và áp dụng nhanh chóng và rộng
rãi vào đời sống. Đặc biệt là các máy móc, thiết bị phục vụ đất trồng
trọt, chống xói mòn, các máy gieo hạt, thu hoạch và các thiết bị phù
hợp cho thâm canh tăng vụ, tưới tiêu (tự động hóa)… Nhiều thiết bị tự
động khác cũng được sử dụng trong chăn nuôi như máy vắt sữa, máy thu
hoạch trứng, các hệ thống cho ăn tự động… Rồi thì các máy móc phục vụ
sau thu hoạch như máy phân loại sản phẩm, máy đóng gói, hệ thống kho
trữ và đặc biệt là hệ thống vận tải chuyên biệt. Những công nghệ phát
triển trong nước cũng chú trọng tới việc kiểm soát bón phân tự động
hóa (thông qua hệ thống máy tính), có thể bón phân qua nước tưới tiêu,
các biện pháp kiểm soát độ ẩm, tạo môi trường trong lành cho trồng
hoa, các thực phẩm trái mùa…
Sự can thiệp của Chính phủ
Bộ Nông nghiệp Israel hỗ trợ và kiểm soát toàn bộ các hoạt động nông
nghiệp của đất nước, gồm cả việc duy trì các tiêu chuẩn cao đối với
các sản phẩm cây trồng và vật nuôi, đề ra các kế hoạch thúc đẩy, phát
triển nông nghiệp thông qua các hoạt động nghiên cứu và thị trường (kể
cả marketing). Từ nhiều năm nay, nông nghiệp Israel được Chính phủ
nước này kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống trợ cấp sản xuất và
định mức nước tiêu thụ cho mỗi mùa vụ. Hiện nay, nước này cũng kiểm
soát định mức sản xuất và chất lượng của một số sản phẩm nông nghiệp
như sữa, trứng, gà con và khoai tây.
Các chương trình nghiên cứu nhằm gia tăng lượng nước để tưới tiêu cũng
đang được tiến hành, chủ yếu thông qua tăng lượng nước mưa (tạo mưa
nhân tạo), khử mặn trong nước và sử dụng các hệ thống lọc nước để tái
sử dụng. Các nghiên cứu mới đã dẫn tới việc khai thác nước mặn ở các
bể chứa nước khổng lồ tại sa mạc Negrev, dùng cho một số giống cây phù
hợp.
Việc kiểm soát lượng nước tiêu thụ bằng định mức chủ yếu được thực
hiện thông qua biện pháp giá, kiểm soát nước được bơm từ lòng đất và
các dự án cung cấp nước sắp ra đời. Một chương trình kiểm soát nước
mới được ra đời trong đó cắt giảm lượng nước sạch cung cấp cho nông
nghiệp, thay vào đó, gia tăng việc tái sử dụng nước đã qua sử dụng ở
các khu vực đô thị, mở rộng việc sử dụng nước được khử mặn, giảm việc
thâm canh sử dụng nhiều nước, tăng cường các hệ thống trữ nước vào mùa
lũ, phát triển các ngôi nhà xanh thân thiện với môi trường và đặc biệt
là đẩy mạnh quá trình khử mặn trong nước biển.
CNC trong nông nghiệp
Các nhà kinh tế thường tranh luận xem liệu sự lựa chọn của nông nghiệp
sẽ như thế nào nếu cứ trồng và xuất khẩu một cân khoai tây với giá
khoảng 5 USD với việc bán ra nước ngoài, cũng là một cân giống khoai
tây lai, có giá lên tới 7.000 USD. Và muốn làm được như vậy, không có
cách nào khác là phải sử dụng tới công nghệ cao trong nông nghiệp. Và
Israel cũng nhận thức rõ rằng đây là con đường duy nhất để nông nghiệp
nước này tiếp tục tồn tại. Trên thực tế, mãi lực thị trường trong nước
và nước ngoài, sự hiếm hoi đất nông nghiệp, nhân công hạn chế và đặc
biệt là thiếu nước tưới tiêu đã là các động lực lớn nhất biến đổi toàn
bộ nông nghiệp Israel
Một xu hướng ngày càng phát triển ở Israel là đang có bước chuyển giữa
các trang trại thâm canh tăng vụ, các nhà sản xuất nông nghiệp truyền
thống lớn sang các loại hình sản xuất dựa trên khoa học và R&D, thí dụ
như sản xuất các loại khoai tây lai có khả năng kháng virus cao, hay
các loại chuối cây thân nhỏ nhưng năng suất cao.
Bên cạnh đó, nông dân Israel cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn.
Một mặt, họ phải đương đầu với nông sản giá rẻ nhập khẩu từ các nước
láng giềng, mặt khác là phải phù hợp với các tiêu chuẩn mới về nhập
khẩu nông sản theo Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Cũng như nhiều nước khác, nông nghiệp Israel cũng phải chịu áp lực bởi
lượng nhân công phục vụ trong lĩnh vực này ngày càng ít đi (giảm 40%
từ năm 1960 tới năm 1996). Mặc dầu vậy, lượng nhân công ít ỏi trong
nông nghiệp ngày nay lại đem lại sản lượng lớn hơn so với trước kia.
Trong đầu những năm 1950, một nông dân có thể cung cấp đủ lương thực
cho 17 người thì vào năm 1994, mỗi người trong số họ đã có thể nuôi
được 90 người.
Phần lớn nông nghiệp của Israel được tổ chức theo hình thức hợp tác
xã, hình thành từ các thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Thúc đẩy bởi cả ý
tưởng và hoàn cảnh thực tế, các nhà tiên phong đã tạo ra hai hình thức
nông nghiệp mới: kibbuttz, một cộng đồng tập thể với phương tiện sản
xuất chung và mỗi thành viên được hưởng lợi ích từ công việc của chính
mình. Và moshav, kiểu hợp tác xã của làng trong đó mỗi thành viên sử
dụng đất của mình để sản xuất, nhưng đầu vào và đầu ra (kể cả
marketing) được thực hiện tập thể, theo một đầu mối. Cả hai hình thức
lao động tập thể này đều được tạo ra để hiện thực hóa giấc mơ cộng
đồng nông nghiệp dựa trên bình đẳng xã hội, hợp tác và tương trợ lẫn
nhau. Ngày nay, sản lượng nông nghiệp của các hợp tác xã này vẫn chiếm
đa số áp đảo trong sản xuất nông nghiệp, kể cả phục vụ thị trường nội
địa lẫn xuất khẩu.
Hoàng An dịch
Các bài viết liên quan:
1. Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp Việt
2. Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp
3. Nông nghiệp có phải cứu cánh của nền kinh tế Việt Nam?
4. Điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam
5. Tiến sĩ Alan Phan: "Công nghệ thông tin và nông nghiệp là tương lai
của kinh tế Việt Nam"
Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015
Re: "Những kẻ yếu không bao giờ biết tha thứ. Sự tha thứ chỉ có ở những người mạnh".
> *Những câu nói của Mahatma Gandhi đã giúp con người nhận định và thay đổi
> bản thân, từ đó thay đổi thế giới. Một trong những câu nói nổi tiếng của
> ông đó là: "Những kẻ yếu không bao giờ biết tha thứ. Sự tha thứ chỉ có ở
> những người mạnh".*
>
> *1. Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là hy sinh mình vì lợi ích của
> người khác.*
>
>
>
> Ta có thể tìm thấy chính mình ở nhiều điều kiện khác nhau, nhưng khi hy
> sinh mình vì lợi ích của người khác thì bạn sẽ tìm thấy chính mình tốt
> nhất. Bởi khi bạn hi sinh vì lợi ích của người khác bạn mới nhận ra được,
> bạn là ai, bạn cần những gì, bạn là người thế nào khi vì người khác.
> *2. Sự vĩ đại của con người không nằm ở khả năng tái tạo thế giới mà ở khả
> năng tái tạo chính bản thân mình.*
>
>
>
> Đừng nghĩ rằng sự vĩ đại nằm ở chỗ tên tuổi bạn như thế nào khi nhắc đến
> với "thế giới", mọi sự thành công đưa đến sự vĩ đại là một cuộc chiến với
> chính bản thân bạn. Thay đổi hay nói cách khác là tái tạo bản thân sẽ đưa
> bạn đến thành công trên con đường đi đến sự vĩ đại.
> *3. Không ai có thể làm tôi tổn thương, trừ phi tôi cho phép điều đó.*
>
>
>
> Sự tổn thương ở đây không phải là những vết tích ngoài da mà là những vết
> tích trong con người bạn. Cùng một câu nói, khi nói với người này không
> sao, nhưng đối với bạn lại là một sự tổn thương. Tổn thương hay không nằm
> chính trong nhận thức, đón nhận , phản ứng lại xã hội của bạn.
> *4. Tự do sẽ không có giá trị nếu không bao gồm tự do phạm sai lầm.*
>
>
>
> "Tự do" không đơn thuần chỉ những điều tốt đẹp, "tự do" còn bao gồm rất
> nhiều những sai phạm. Bởi đơn giản giữa đúng và sai là một ranh giới khá mơ
> hồ, nói một cách khác có phạm sai lầm mới có những điều tốt làm cho vấn đề
> "tự do" có giá trị.
>
> *5. Sự trả thù chỉ khiến thế giới trở nên tăm tối*
>
>
>
> Sự trả thù chỉ kéo dài những chuỗi ngày đen tối, đầy thù hận. Ví như những
> cuộc giao tranh, tranh chấp giữa các quốc gia, bộ tộc trên thể giới, chỉ
> mang lại thù hận, những đòn trả đũa nhau mang đầy máu, xác người và sự đỗ
> nát.
> *6. Một gram hành động vẫn hơn một tấn giáo điều.*
>
>
>
> Lời nói quan trọng, nhưng nói mà không làm thì lời nói cũng trở nên vô
> nghĩa. Không cần biết bạn tài giỏi đến đâu, giới thuyết hay đến đâu, nhưng
> bạn không có những hành động hiện thực thì khó mà đánh giá bạn là người tài
> giỏi.
> *7. Quá tin tưởng vào tài trí của chính mình là một việc không hề khôn
> ngoan.*
>
>
>
> Ta hay nói, "hãy tin vào chính mình" – điều này đúng, nhưng không phải vì
> điều này mà bạn đặt hết niềm tin vào tài trí của mình, bởi bạn giỏi sẽ có
> người khác giỏi hơn và đôi khi chính tài năng của bạn cũng phản lại chính
> bạn. Hãy tin và sử dụng tài năng của bạn một cách khôn ngoan.
> *8. Cần nhớ rằng, ngay cả người khỏe mạnh nhất cũng có thể yếu đi và người
> khôn ngoan nhất cũng có thể mắc sai lầm.*
>
>
>
> *9. Quy luật của cuộc sống là không ngừng vận động và phát triển. Nếu cứ
> luôn đi theo những giáo lý sáo rỗng chỉ để chứng tỏ bản thân kiên định thì
> bạn sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.*
>
>
>
> *10. Đừng đánh mất niềm tin vào nhân loại. Nhân loại là cả một đại dương -
> đại dương rộng lớn không dễ bị nhiễm bẩn chỉ vì vài giọt nước trong đó bị ô
> nhiễm*
>
>
>
> Sự rộng lớn của nhân loại sẽ "pha loãng" và làm mất đi những điều "ô
> nhiễm". Hãy tin chính bạn và nhân loại. Bởi vì bạn cũng là một thành phần
> của nhân loại.
>
Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015
Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp
Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp
Bài 1:
Vì sao ngành nông nghiệp Mỹ đứng hàng đầu thế giới?
Tổng Hợp của Nhật Hạ – Theo Đại Kỷ Nguyên – 4 May 2015
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động nông nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với 155.421.000 người).
Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2, trong đó diện tích đất có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại, trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta.
Năm 2012, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi đạt 171.7 tỷ đô la.
Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt 149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ.
Dưới đây là một số lý do giải thích vì sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.
1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ
Các chính sách ủng hộ việc phát triển nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng.
Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ, còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.
)Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào Mỹ.
Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
2. Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân
Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu. Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số. Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.
Những người nông dân này thực hiện vận hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm chủ
Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy đủ tiện nghi.Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.
3. Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền.
Vào đầu thế kỷ 20, phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang sống tại các nước trên thế giới.
Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh tươi, bát ngát.
Với những lý do trên, ngành nông nghiệp Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ, tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.
4. Bài học cho chúng ta
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm 2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả nước. Theo thông tin từ Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400 USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5% giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai đoạn 2006-2012.
Chính vì vậy, để có được những bước đột phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.
Nhật Hạ tổng hợp
