Trang chủ

DANH MUC


Muc luc

Giới thiệu
Tin tuc_Thoi su
Họp mặt 30 nam
. Tin tức.Google
Thể thao
Google
Amazon
Yahoo
Facebook
Youtube
Skype Me™!

Liên lạc với chúng tôi

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Người Việt chỉ giỏi lý thuyết, sách vở

CEO người Nhật: Người Việt chỉ giỏi lý thuyết, sách vở
Đây là lần thứ 2, ông Ito Junichi, CEO công ty World Link Japan Inc,
đã lên tiếng nhận xét về lao động Việt.
>> Sinh viên được "thổi lửa" nghề nghiệp từ CEO công nghệ Hàn Quốc
>> 11 điều ít biết về CEO Facebook
>> Bí quyết lãnh đạo của một CEO 26 tuổi
Theo chia sẻ của ông trên facebook, lần đầu ông đến Việt Nam, cách đây
20 năm, ông thấy người Việt Nam cần cù, chăm chỉ như người Nhật.
Thế nhưng, ông cho hay: "Một điều có thể thấy là người Việt coi thường
những người lao động chân tay. Nhiều người trẻ thích làm trong các văn
phòng tiện nghi, có điều hòa.
Ở Nhật, sinh viên ĐH nổi tiếng nhất là ĐH Tokyo nhưng đến nhà máy thực
tập phải dọn dẹp, làm vệ sinh, họ phải học lao động tay chân. Họ phải
học mọi thứ trước khi học làm sếp".
Người Việt đã lười hơn rất nhiều so với cách đây 20 nămTrong khi,
nhiều người Việt trẻ tốt nghiệp ĐH, thạc sĩ nhưng họ chưa làm việc
thật bao giờ. Họ chỉ học trên giấy tờ, đọc sách, báo nhưng chẳng hiểu
thực tế gì cả. Họ chỉ thích làm việc bàn giấy, họ nặng lý thuyết mà
thiếu thực tế.
"Thiết nghĩ Việt Nam nên tạo điều kiện cho những người giỏi kỹ năng
thay vì chỉ tạo điều kiện cho những người chỉ biết làm bài kiểm tra!",
ông Ito Junichi đưa ra lời khuyên.
Đây cũng không phải lần đầu tiên, ông Ito Junichi đưa ra những suy
ngẫm về lao động Việt, trước đó, ông cũng từng đưa ra nhìn nhận người
lao động Việt Nam ngày nay thích kiếm tiền nhưng lại không chăm chỉ.
Thậm chí, có thể thấy là người Việt Nam thường coi thường những người
lao động chân tay như thợ hàn, công nhân lao động, công nhân xí
nghiệp.
Trước những nhận định của CEO người Nhật, PGS.TS Nguyễn Văn Nam -
nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại cho hay: "Theo tôi thì
thanh niên bây giờ do giáo dục không tốt, quản lý kém, cho nên mới đua
đòi kiểu sống thực dụng, không biết công việc ổn định như thế nào, mà
chỉ quan tâm kiếm được bao nhiêu tiền để đi nhậu, đi chơi.
Bị ảnh hưởng từ lối sống chộp giật, lối sống trước mắt, nhưng nó không
phải tất cả. Vì cũng có nhiều người chịu khó học hành, làm việc ổn
định chăm chỉ.
Thực ra bệnh lười cũng là đặc tính của bất cứ con người nào trên Trái
Đất này, muốn làm nhàn nhã mà được ăn no đủ, đó là một mong muốn
chung. Nhưng nhiều khi là do cơ chế chính sách, để họ thấy sống lười
tốt hơn là chăm".
Theo ông Nam phân tích, như trong một cơ quan thủ trưởng đánh giá
không sâu sát, cứ theo quy định máy móc, 3 năm là tăng lương, vậy thì
chăm cũng 3 năm sẽ tăng, lười thì cũng 3 năm mới tăng. Cơ chế chính
sách quản lý đó làm cho họ thấy chăm làm gì, trong khi lười vẫn sẽ
đàng hoàng.
"Theo tôi tất cả là do cơ chế, do nền giáo dục hiện nay kém, cho nên
không cho họ cái nhìn xa, không đặt cho mình những thách thức, mục
tiêu để phấn đấu, để vươn lên. Trong khi cứ nói là làm theo Bác Hồ,
nhưng đó chỉ là lời nói gió bay có khuyến khích những người chăm chỉ
làm việc đâu.
Bên cạnh đó, bệnh thành tích của dân ta nặng lắm, kể cả đến lãnh đạo
cơ quan quản lý hiện nay cũng phấn đấu vì thành tích", ông chỉ rõ.
Đồng tình quan điểm, TS Nguyễn Văn Vịnh, nguyên Phó viện trưởng Viện
Nghiên cứu Xã hội cho rằng, thực ra, nếu như XH tạo được hết việc làm
cho công dân, nếu như XH có cách quản lý rất tốt, thì đương nhiên đó
là XH tốt.
Bản thân chúng ta đang lúng túng, ở chỗ như người từ quê ra hội nhập,
thới quen của một nước quan phương, bây giờ đi vào cách thức khác mang
tính chuyên nghiệp, cũng cần thời gian làm quen.
Không những vậy, tại diễn đàn tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt
Nam ngày 19/11 vừa qua, ông Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam cũng đã từng nhắc lại lời một chuyên gia kinh tế nổi tiếng:
"Hiện nay Hàn quốc xuất khẩu ông chủ sang Việt Nam, còn Việt Nam chủ
yếu xuất khẩu lao động sang làm thuê cho Hàn Quốc!".
Ông Thiên cũng trích lời GS Trần Văn Thọ khi nói rằng: "Cứ cái đà này
(tiếp tục xuất khẩu lao động) thì Việt Nam sẽ là quốc gia đi làm thuê
cho toàn thế giới".

Theo Báo Đất Việt
Xem thêm :bệnh thành tích, công việc ổn định, Người lao động

---------- Forwarded message ----------
From: Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com>
Date: Tue, 1 Dec 2015 08:55:02 +0700
Subject: Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
To: "huutoan66.weblog" <huutoan66.weblog@blogger.com>

"Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá"
Thứ Hai, 30/11/2015 10:09
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty My Lan: "Trở
về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại
sao".
11 năm gây dựng một nơi được ví như "thung lũng Silicon" xanh, sạch
ngay trên một tỉnh nghèo Việt Nam, đó là con đường lội ngược dòng của
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Mỹ Lan, một
Việt kiều trở về từ Canada.
Nằm tại khu công nghiệp Long Đức, tỉnh Trà Vinh, Mỹ Lan là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên sản suất hóa chất và bản kẽm phục
vụ cho ngành in trong nước và xuất khẩu. Nơi đây đã sản xuất vật liệu
hóa chất quang điện tử đầu tiên ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành
nước thứ 12 trên toàn cầu sản xuất loại vật liệu này.

Ông Nguyễn Thanh Mỹ (giữa) trong một lần chào mừng nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết.
Ông Mỹ nói với BizLIVE:
Trở về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại sao".
Tại sao người Việt Nam thông minh mà thiếu sáng tạo? Tại sao vô vườn
không thấy trái cây Việt Nam, toàn giống của nước ngoài? Tại sao mỗi
lần vào, ra sân bay cũng bị vòi tiền? Tại sao nhà trường dạy đạo đức,
trách nhiệm, mà xã hội lại thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm, ra
đường không tuân theo luật giao thông, đâu cũng thấy rác rưởi?
Biết bao câu hỏi tại sao...
Tôi muốn gây dựng một thế giới xanh ở Mỹ Lan, để trả lời cho những câu
hỏi này, hơn là chỉ để kiếm tiền. Mình thử tạo một môi trường mới ngay
ở một mảnh đất nghèo của quê hương, để các em nhân viên có chỗ sáng
tạo, có trách nhiệm với cộng đồng, xem có làm được hay không?
Biến thói quen xấu thành tốt là khó nhất
Ông đã làm thế nào để biến những chàng trai, cô gái chân quê thành
những nhân viên có tác phong công nghiệp?
11 năm qua, để xây dựng một môi trường xanh hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn
quả không hề đơn giản. Ngay từ đầu tôi chủ trương nếu nghiên cứu sản
phẩm không xanh hơn không làm.
Hàng năm Mỹ Lan có vài sáng chế mới rất thân thiện với môi trường, từ
bản in dùng nhiều hóa chất, giờ chỉ cần nước với xà phòng thôi. Tập
đoàn kinh doanh minh bạch, thông suốt, đóng thuế hàng đầu, trước ký
hạn, không có ẩn số nào hết, đúng luật lệ.
Về con người, tôi chia thành hai đối tượng để tuyển dụng và đào tạo.
Thứ nhất là những người có tính năng động, cầu tiến, chuyên môn cao.
Loại người thứ hai muốn cầu tiến nhưng chuyên môn yếu. Chuyên môn có
thể dạy, nhưng tính cầu tiến, năng động không dạy được.
Làm thế nào ư? Tôi bắt đầu huấn luyện nhân viên từ cái… toa lét công
ty! Đa số nhân viên là nông dân địa phương, đâu dùng toa lét hiện đại
bao giờ. Phải dạy các em từ cách ngồi bàn cầu, rửa tay, chùi kiếng để
người kế bước vô lúc nào cũng sạch.
Biến thói quen xấu thành thói quen tốt là khó nhất.
Bên cạnh đó, tôi có kế hoạch hợp tác lâu dài với Đại học Trà Vinh để
sinh viên vừa học vừa làm ngay tại Mỹ Lan, có lương 2 triệu đồng/
tháng, cung cấp đồng phục, ăn uống đầy đủ. Riêng tôi đảm nhiệm luôn
vai trò Trưởng khoa Hóa học ứng dụng tại Đại học Trà Vinh.
Lớp học của tôi không có ghế, tôi chủ yếu dạy các em đặt câu hỏi. Mỗi
em phải có một câu hỏi mới được bước vào lớp.
Hiệu quả của những thay đổi này đến đâu?
Các em ngày càng tự hào hơn khi mặc đồng phục công ty, tự tin hơn với
cuộc sống, chính các em lại là người mang văn minh công ty về làng xóm
của mình, đó là động lực giúp tôi vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt
của môi trường làm ăn.
Mặc dù, cũng chính sự khác biệt đó đôi khi lại dẫn đến... hậu quả. Có
nhiều nhân viên nữ làm ở công ty đã bỏ chồng, bỏ người yêu do không
còn phù hợp với nhau nữa. Môi trường công ty văn minh hơn bên ngoài,
có tiền lương cao hơn bên ngoài, được tôn trọng hơn, vệ sinh sạch sẽ
hơn… đã khiến cho nhiều mối tình tan vỡ.
Cách giải quyết của tôi là khuyến khích các em cưới nhau. Hiện tôi đã
tổ chức đám cưới cho 90 cặp, chỉ có một cặp sau một năm rưỡi trở lại
với nhau đã ly thân, nhưng các em vẫn cùng nhau lo cho con. Hàng ngày
thấy các em có cuộc sống ổn định hơn, khỏe mạnh hơn, tôi rất mừng.
Ở đây luôn duy trì chế độ khám chữa bệnh, khám chữa răng cho các em.
Với những cháu bị bệnh mãn tính, tôi gửi đi khám ở bệnh viện Pháp
Việt.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tới học cách quản lý của My Lan, tôi luôn mở
cửa và chia sẻ hết những gì mình làm.
Công ty trở thành "showroom" cho tỉnh, nhiều người thắc mắc thấy mình
đầu tư cảnh quan nhiều mà vẫn có lợi nhuận cao? Đơn giản là, hiệu quả,
năng suất nhân viên cao hơn nhiều so với chỗ khác vì họ yêu thích môi
trường làm việc.
Gần đây Viettel cũng vô học hỏi mô hình làm việc ở đây. Hy vọng Mỹ Lan
là chỗ người ta nhìn thấy, để thay đổi cách vận hành văn minh hơn,
giúp người Việt tự tin hơn với dân tộc mình.
Đó cũng chính là câu trả lời của riêng tôi. Rất mừng là bây giờ đôi
khi Nhà nước cũng đã nghe người ta nói khác, nghĩ khác. Chắc thời bao
cấp sẽ lần lần lui về quá khứ, cũng đỡ.
Đầu óc cũ làm người Việt không tin nhau
Khó khăn nhất trong 11 năm qua với ông là gì?
Với tôi kinh doanh bao giờ cũng thú vị, chỉ có những chuyện râu ria
làm mình bực. Thời mở cửa rồi mà chúng ta cứ dạy học sinh tư bản là kẻ
thù, tạo ra kẻ thù thì đất nước không phát triển được đâu.
Mấy năm đầu về Trà Vinh, tôi bị nghi ngờ "thằng này là tư bản", không
tốt đâu. Đến khi mình làm tốt quá người ta cũng đặt nghi vấn, ông này
trồng cây xanh nhiều quá có khi để… chôn hóa chất dưới đó!
Đôi khi cũng phát mệt với các cơ quan ban ngành. Cả tỉnh Trà Vinh chưa
có nơi nào ăn ngon và sạch như công ty mình, vậy mà người ta cũng kiếm
cách chê, tìm cho được một con muỗi. Nhiều khi cũng bị cảm xúc, tâm lý
tưởng khó có thể vượt qua.
Mình đang làm ăn ở Canada, mọi thứ đều minh bạch, rõ ràng, về đây sao
cực nhọc quá! Nhiều khi sang Canada, vợ tôi cản, bảo anh ở lại đi, về
làm chi nữa? Tôi phải rất khó khăn mới thuyết phục được gia đình.
Cũng may bây giờ đỡ rồi, mình làm đàng hoàng, đúng hơn cái người ta
cần nữa thì đâu có sợ gì.
Vậy thì theo ông, đâu là điểm yếu khiến cho Việt Nam chưa quy tụ được
nhiều người tài từ thế giới về cống hiến cho đất nước?
Đầu óc cũ, lạc hậu làm người Việt mình không tin nhau.
Một doanh nhân như tôi hàng ngày phải quan hệ với cơ quan ban ngành
Nhà nước, với doanh nghiệp xung quanh. Anh Alan Phan nói rất đúng,
doanh nhân Việt Nam phải đối diện với những quan hệ rất phức tạp, đôi
khi cũng nản chí.
Chẳng hạn, đụng với nhân viên quản lý môi trường, họ chẳng cần coi
mình làm gì, mà chỉ kiếm phong bì.
Tôi nhớ năm 2006, sau một năm công ty vận hành, tổ chức tiệc tất niên,
công bố doanh thu, tiền lời, tưởng được khen ngợi, ai ngờ chiều về,
công an kinh tế bắt 5 nhân viên tra hỏi, tại sao mới một năm công ty
đã có lời?
Cái gì mình làm khác mà tốt hơn người ta cũng bị nghi ngờ.
Nhưng mừng là càng ngày càng thấy khát vọng phát triển văn minh có ở
rất nhiều người trẻ. Lớp trẻ đòi hỏi phải cho phép họ nghĩ khác để làm
khác, cái khuôn nó trật sao cứ bắt người ta làm giống hoài, tại sao
vậy?
Giờ hội nhập, đất nước càng ngày càng có quan hệ gần gũi hơn quốc tế.
Từ Trà Vinh về Sài Gòn trước tốn 6 giờ giờ chỉ mất 3 giờ, đi đâu cũng
vô Internet được, trong khi nhiều nước không vậy đâu. Đồng thời Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư cũng thoải mái hơn, tôi tin Việt Nam sẽ tốt
hơn.
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
Là một nhà khoa học, con đường trở thành một nhà khoa học với 73 bằng
phát minh, sáng chế được công nhận ở nhiều quốc gia khác nhau, với ông
hẳn đầy chông gai?
Làm tại IBM, con đường khoa học của tôi dễ dàng lắm, vì tính mình đi
vô chỗ nào cũng muốn sửa, đưa ra những sáng chế mới là chuyện bình
thường, hàng ngày.
Nhưng con đường trở thành nhà khoa học mới chông gai. Tôi qua Canada
không cha mẹ, không nghề nghiệp, nói tiếng không ai hiểu. Đi học đại
học trở lại năm 1983, một mặt vừa lo kiếm tiền nuôi vợ con, vừa gửi về
nước nuôi cha mẹ. Bảy năm trời học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, ngày
nào cũng chỉ được ngủ hai ba giờ thôi.
Mùa hè người Canada phơi nắng ngoài trời rất thong thả, trong khi mình
phải thức dậy 2 giờ sáng để đi học, trưa phải đi làm thêm nhà hàng,
tối đi dạy. Nhiều khi muốn bỏ cuộc, phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều,
đầu bên trái nói học để có tiền lương cao hơn, khá hơn thay vì làm bồi
bàn. Nhưng đầu bên phải nói không học có chết đâu, vất vả quá thế này
làm gì...
Cuối cùng ráng cố gắng, ý chí giúp mình vượt qua.
Tôi luôn khuyên những người trẻ ráng cố gắng tìm cách này cách khác,
đừng bao giờ bỏ cuộc hết. Nếu bỏ cuộc không cách nào thành công.
Nhưng ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá. Cái gì cũng đổ thừa tại cha
mẹ nghèo, tại không có vốn, tại...
Nếu khởi nghiệp, cái vốn ngàn tỉ cha mẹ để lại chính là cái đầu nè,
suy nghĩ để đào ra mà xài.
Theo ông, Việt Nam có thể làm nên kỳ tích giống như Ấn Độ, Trung Quốc
trong lĩnh vực phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin?
Người Việt Nam sẽ hơn họ chứ. Nhưng có điều hãy đi từ 0 tới 1, chứ
đứng vội từ 1 tới N, phải phát triển công nghệ thay vì ăn cắp, bắt
chước.
Những nước đang phát triển đừng bắt chước các nước đã phát triển,
Thượng Hải của Trung Quốc là một ví dụ. Phải nghĩ khác, làm khác mới
được. Phải đặt câu hỏi có cách nào làm khác không, tốn ít năng lượng
hơn không, chứ đừng bắt chước. Người Việt Nam đã có gien thông minh,
vấn đề là có chịu làm hay không.
Vừa là nhà khoa học, vừa là doanh nhân, con người nghiên cứu trong ông
có bao giờ mâu thuẫn với con người kinh doanh?
Doanh nhân đi từ người làm khoa học dễ hơn, hiểu về công nghệ, sản
phẩm rõ ràng hơn, có suy nghĩ logic, khoa học hơn. Bản chất doanh nhân
là không bao giờ chấp nhận làm thuê, chỉ làm việc cho chính mình.
Không giả bộ làm doanh nhân được, làm doanh nhân phải là từ trong máu.
Cha tôi ngày xưa có nhiều vợ, ông bỏ mẹ con tôi khi tôi mới lên bảy
tuổi. Tám tuổi tôi đã lăn lưng ra đường kiếm sống, bán kem, bánh mì để
có đồng lời, máu kinh doanh thấm vào từ nhỏ.
Lớn lên, đi làm chỗ nào cũng thấy không hài lòng. Làm nhà hàng thấy
cái bếp tại sao không sạch, thấy ông chủ đối xử với nhân viên không
tốt. Tới chừng làm khoa học cảm thấy không đồng ý với cái mình đang
có. Bất cứ chuyện gì cũng thấy là có thể làm tốt hơn.
Doanh nhân cũng bắt đầu bằng cái muốn làm tốt hơn cho chính mình, và
cho cộng đồng xung quanh, tiền sẽ đi theo thôi. Còn muốn làm doanh
nhân để có nhiều tiền hơn thì chỉ gặp cá sấu hay cá mập.
Người Việt mình giống cá hồi vậy đó
Nhưng, ông có sợ tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế, khoa học sẽ
hủy hoại những giá trị cội nguồn của thiên nhiên, của văn hóa?
Tốc độ phát triển khoa học càng nhanh càng giúp cho trái đất tốt hơn,
nhưng phải nằm trong tay người tốt, bắt đầu từ trái tim, linh hồn tốt
đã.
Đốn gỗ đã đời ở đây rồi qua nước khác đốn, nuôi bò ô nhiễm quá người
dân chịu không nổi, thì thử hỏi làm giàu để làm gì? Làm doanh nhân là
muốn có nhiều tiền hay cũng muốn cả xung quanh tốt hơn?
Người ta có đủ cách để làm không tốt. Người nhiều tiền với người giàu
khác nhau. Người giàu biết họ giàu, có tài sản, tiền bạc, biết chia sẻ
tiền bạc tài sản. Việt Nam mình nhiều đại gia quá mà thiếu người giàu,
còn người trẻ lại nhiều người giàu hơn, dù họ ít tiền hơn đại gia.
Nhưng mình cũng mừng vì đã có những doanh nhân trẻ thực sự tốt, phát
triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ, bản lĩnh, không giống như thời
trước.
Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Có chứ. Trong gia đình không cô đơn, nhưng về xứ mình lại nhiều khi cô
đơn lắm, vì làm khác người ta quá.
Nhưng, dù sướng khổ thế nào ông vẫn ở lại quê hương?
Người Việt mình đẻ ra lớn lên vùng nào, đi đâu thì đi giống như cá hồi
vậy đó, cũng bơi ngược dòng để chết tại quê hương.
Tại sao Trà Vinh phì nhiêu thế, có biển đẹp thế lại bị coi là tỉnh
cùng, tỉnh nghèo?
Vấn đề là cái nhìn của mình thế nào thôi. Tôi muốn chứng minh điều ngược lại.
Theo Kim Yến (Bizlive)

Nld.com.vn
Tin theo chủ đề :
khu công nghiệp
,
môi trường xanh
,
Thung lũng Silicon
,
thiếu minh bạch
,
tiền lương cao
,
trái cây Việt Nam
,
thói quen xấu
,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
,
vốn nước ngoài
,
nguyễn thanh mỹ

Chia sẻ:
Ý kiến bạn đọc4 phản hồi

Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá

"Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá"
Thứ Hai, 30/11/2015 10:09
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty My Lan: "Trở
về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại
sao".
11 năm gây dựng một nơi được ví như "thung lũng Silicon" xanh, sạch
ngay trên một tỉnh nghèo Việt Nam, đó là con đường lội ngược dòng của
TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Mỹ Lan, một
Việt kiều trở về từ Canada.
Nằm tại khu công nghiệp Long Đức, tỉnh Trà Vinh, Mỹ Lan là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên sản suất hóa chất và bản kẽm phục
vụ cho ngành in trong nước và xuất khẩu. Nơi đây đã sản xuất vật liệu
hóa chất quang điện tử đầu tiên ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành
nước thứ 12 trên toàn cầu sản xuất loại vật liệu này.

Ông Nguyễn Thanh Mỹ (giữa) trong một lần chào mừng nguyên Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết.
Ông Mỹ nói với BizLIVE:
Trở về Việt Nam lần đầu tiên năm 2000, tôi có quá nhiều những câu hỏi "tại sao".
Tại sao người Việt Nam thông minh mà thiếu sáng tạo? Tại sao vô vườn
không thấy trái cây Việt Nam, toàn giống của nước ngoài? Tại sao mỗi
lần vào, ra sân bay cũng bị vòi tiền? Tại sao nhà trường dạy đạo đức,
trách nhiệm, mà xã hội lại thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm, ra
đường không tuân theo luật giao thông, đâu cũng thấy rác rưởi?
Biết bao câu hỏi tại sao...
Tôi muốn gây dựng một thế giới xanh ở Mỹ Lan, để trả lời cho những câu
hỏi này, hơn là chỉ để kiếm tiền. Mình thử tạo một môi trường mới ngay
ở một mảnh đất nghèo của quê hương, để các em nhân viên có chỗ sáng
tạo, có trách nhiệm với cộng đồng, xem có làm được hay không?
Biến thói quen xấu thành tốt là khó nhất
Ông đã làm thế nào để biến những chàng trai, cô gái chân quê thành
những nhân viên có tác phong công nghiệp?
11 năm qua, để xây dựng một môi trường xanh hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn
quả không hề đơn giản. Ngay từ đầu tôi chủ trương nếu nghiên cứu sản
phẩm không xanh hơn không làm.
Hàng năm Mỹ Lan có vài sáng chế mới rất thân thiện với môi trường, từ
bản in dùng nhiều hóa chất, giờ chỉ cần nước với xà phòng thôi. Tập
đoàn kinh doanh minh bạch, thông suốt, đóng thuế hàng đầu, trước ký
hạn, không có ẩn số nào hết, đúng luật lệ.
Về con người, tôi chia thành hai đối tượng để tuyển dụng và đào tạo.
Thứ nhất là những người có tính năng động, cầu tiến, chuyên môn cao.
Loại người thứ hai muốn cầu tiến nhưng chuyên môn yếu. Chuyên môn có
thể dạy, nhưng tính cầu tiến, năng động không dạy được.
Làm thế nào ư? Tôi bắt đầu huấn luyện nhân viên từ cái… toa lét công
ty! Đa số nhân viên là nông dân địa phương, đâu dùng toa lét hiện đại
bao giờ. Phải dạy các em từ cách ngồi bàn cầu, rửa tay, chùi kiếng để
người kế bước vô lúc nào cũng sạch.
Biến thói quen xấu thành thói quen tốt là khó nhất.
Bên cạnh đó, tôi có kế hoạch hợp tác lâu dài với Đại học Trà Vinh để
sinh viên vừa học vừa làm ngay tại Mỹ Lan, có lương 2 triệu đồng/
tháng, cung cấp đồng phục, ăn uống đầy đủ. Riêng tôi đảm nhiệm luôn
vai trò Trưởng khoa Hóa học ứng dụng tại Đại học Trà Vinh.
Lớp học của tôi không có ghế, tôi chủ yếu dạy các em đặt câu hỏi. Mỗi
em phải có một câu hỏi mới được bước vào lớp.
Hiệu quả của những thay đổi này đến đâu?
Các em ngày càng tự hào hơn khi mặc đồng phục công ty, tự tin hơn với
cuộc sống, chính các em lại là người mang văn minh công ty về làng xóm
của mình, đó là động lực giúp tôi vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt
của môi trường làm ăn.
Mặc dù, cũng chính sự khác biệt đó đôi khi lại dẫn đến... hậu quả. Có
nhiều nhân viên nữ làm ở công ty đã bỏ chồng, bỏ người yêu do không
còn phù hợp với nhau nữa. Môi trường công ty văn minh hơn bên ngoài,
có tiền lương cao hơn bên ngoài, được tôn trọng hơn, vệ sinh sạch sẽ
hơn… đã khiến cho nhiều mối tình tan vỡ.
Cách giải quyết của tôi là khuyến khích các em cưới nhau. Hiện tôi đã
tổ chức đám cưới cho 90 cặp, chỉ có một cặp sau một năm rưỡi trở lại
với nhau đã ly thân, nhưng các em vẫn cùng nhau lo cho con. Hàng ngày
thấy các em có cuộc sống ổn định hơn, khỏe mạnh hơn, tôi rất mừng.
Ở đây luôn duy trì chế độ khám chữa bệnh, khám chữa răng cho các em.
Với những cháu bị bệnh mãn tính, tôi gửi đi khám ở bệnh viện Pháp
Việt.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã tới học cách quản lý của My Lan, tôi luôn mở
cửa và chia sẻ hết những gì mình làm.
Công ty trở thành "showroom" cho tỉnh, nhiều người thắc mắc thấy mình
đầu tư cảnh quan nhiều mà vẫn có lợi nhuận cao? Đơn giản là, hiệu quả,
năng suất nhân viên cao hơn nhiều so với chỗ khác vì họ yêu thích môi
trường làm việc.
Gần đây Viettel cũng vô học hỏi mô hình làm việc ở đây. Hy vọng Mỹ Lan
là chỗ người ta nhìn thấy, để thay đổi cách vận hành văn minh hơn,
giúp người Việt tự tin hơn với dân tộc mình.
Đó cũng chính là câu trả lời của riêng tôi. Rất mừng là bây giờ đôi
khi Nhà nước cũng đã nghe người ta nói khác, nghĩ khác. Chắc thời bao
cấp sẽ lần lần lui về quá khứ, cũng đỡ.
Đầu óc cũ làm người Việt không tin nhau
Khó khăn nhất trong 11 năm qua với ông là gì?
Với tôi kinh doanh bao giờ cũng thú vị, chỉ có những chuyện râu ria
làm mình bực. Thời mở cửa rồi mà chúng ta cứ dạy học sinh tư bản là kẻ
thù, tạo ra kẻ thù thì đất nước không phát triển được đâu.
Mấy năm đầu về Trà Vinh, tôi bị nghi ngờ "thằng này là tư bản", không
tốt đâu. Đến khi mình làm tốt quá người ta cũng đặt nghi vấn, ông này
trồng cây xanh nhiều quá có khi để… chôn hóa chất dưới đó!
Đôi khi cũng phát mệt với các cơ quan ban ngành. Cả tỉnh Trà Vinh chưa
có nơi nào ăn ngon và sạch như công ty mình, vậy mà người ta cũng kiếm
cách chê, tìm cho được một con muỗi. Nhiều khi cũng bị cảm xúc, tâm lý
tưởng khó có thể vượt qua.
Mình đang làm ăn ở Canada, mọi thứ đều minh bạch, rõ ràng, về đây sao
cực nhọc quá! Nhiều khi sang Canada, vợ tôi cản, bảo anh ở lại đi, về
làm chi nữa? Tôi phải rất khó khăn mới thuyết phục được gia đình.
Cũng may bây giờ đỡ rồi, mình làm đàng hoàng, đúng hơn cái người ta
cần nữa thì đâu có sợ gì.
Vậy thì theo ông, đâu là điểm yếu khiến cho Việt Nam chưa quy tụ được
nhiều người tài từ thế giới về cống hiến cho đất nước?
Đầu óc cũ, lạc hậu làm người Việt mình không tin nhau.
Một doanh nhân như tôi hàng ngày phải quan hệ với cơ quan ban ngành
Nhà nước, với doanh nghiệp xung quanh. Anh Alan Phan nói rất đúng,
doanh nhân Việt Nam phải đối diện với những quan hệ rất phức tạp, đôi
khi cũng nản chí.
Chẳng hạn, đụng với nhân viên quản lý môi trường, họ chẳng cần coi
mình làm gì, mà chỉ kiếm phong bì.
Tôi nhớ năm 2006, sau một năm công ty vận hành, tổ chức tiệc tất niên,
công bố doanh thu, tiền lời, tưởng được khen ngợi, ai ngờ chiều về,
công an kinh tế bắt 5 nhân viên tra hỏi, tại sao mới một năm công ty
đã có lời?
Cái gì mình làm khác mà tốt hơn người ta cũng bị nghi ngờ.
Nhưng mừng là càng ngày càng thấy khát vọng phát triển văn minh có ở
rất nhiều người trẻ. Lớp trẻ đòi hỏi phải cho phép họ nghĩ khác để làm
khác, cái khuôn nó trật sao cứ bắt người ta làm giống hoài, tại sao
vậy?
Giờ hội nhập, đất nước càng ngày càng có quan hệ gần gũi hơn quốc tế.
Từ Trà Vinh về Sài Gòn trước tốn 6 giờ giờ chỉ mất 3 giờ, đi đâu cũng
vô Internet được, trong khi nhiều nước không vậy đâu. Đồng thời Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư cũng thoải mái hơn, tôi tin Việt Nam sẽ tốt
hơn.
Ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá
Là một nhà khoa học, con đường trở thành một nhà khoa học với 73 bằng
phát minh, sáng chế được công nhận ở nhiều quốc gia khác nhau, với ông
hẳn đầy chông gai?
Làm tại IBM, con đường khoa học của tôi dễ dàng lắm, vì tính mình đi
vô chỗ nào cũng muốn sửa, đưa ra những sáng chế mới là chuyện bình
thường, hàng ngày.
Nhưng con đường trở thành nhà khoa học mới chông gai. Tôi qua Canada
không cha mẹ, không nghề nghiệp, nói tiếng không ai hiểu. Đi học đại
học trở lại năm 1983, một mặt vừa lo kiếm tiền nuôi vợ con, vừa gửi về
nước nuôi cha mẹ. Bảy năm trời học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, ngày
nào cũng chỉ được ngủ hai ba giờ thôi.
Mùa hè người Canada phơi nắng ngoài trời rất thong thả, trong khi mình
phải thức dậy 2 giờ sáng để đi học, trưa phải đi làm thêm nhà hàng,
tối đi dạy. Nhiều khi muốn bỏ cuộc, phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều,
đầu bên trái nói học để có tiền lương cao hơn, khá hơn thay vì làm bồi
bàn. Nhưng đầu bên phải nói không học có chết đâu, vất vả quá thế này
làm gì...
Cuối cùng ráng cố gắng, ý chí giúp mình vượt qua.
Tôi luôn khuyên những người trẻ ráng cố gắng tìm cách này cách khác,
đừng bao giờ bỏ cuộc hết. Nếu bỏ cuộc không cách nào thành công.
Nhưng ở Việt Nam, bệnh đổ thừa nặng quá. Cái gì cũng đổ thừa tại cha
mẹ nghèo, tại không có vốn, tại...
Nếu khởi nghiệp, cái vốn ngàn tỉ cha mẹ để lại chính là cái đầu nè,
suy nghĩ để đào ra mà xài.
Theo ông, Việt Nam có thể làm nên kỳ tích giống như Ấn Độ, Trung Quốc
trong lĩnh vực phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin?
Người Việt Nam sẽ hơn họ chứ. Nhưng có điều hãy đi từ 0 tới 1, chứ
đứng vội từ 1 tới N, phải phát triển công nghệ thay vì ăn cắp, bắt
chước.
Những nước đang phát triển đừng bắt chước các nước đã phát triển,
Thượng Hải của Trung Quốc là một ví dụ. Phải nghĩ khác, làm khác mới
được. Phải đặt câu hỏi có cách nào làm khác không, tốn ít năng lượng
hơn không, chứ đừng bắt chước. Người Việt Nam đã có gien thông minh,
vấn đề là có chịu làm hay không.
Vừa là nhà khoa học, vừa là doanh nhân, con người nghiên cứu trong ông
có bao giờ mâu thuẫn với con người kinh doanh?
Doanh nhân đi từ người làm khoa học dễ hơn, hiểu về công nghệ, sản
phẩm rõ ràng hơn, có suy nghĩ logic, khoa học hơn. Bản chất doanh nhân
là không bao giờ chấp nhận làm thuê, chỉ làm việc cho chính mình.
Không giả bộ làm doanh nhân được, làm doanh nhân phải là từ trong máu.
Cha tôi ngày xưa có nhiều vợ, ông bỏ mẹ con tôi khi tôi mới lên bảy
tuổi. Tám tuổi tôi đã lăn lưng ra đường kiếm sống, bán kem, bánh mì để
có đồng lời, máu kinh doanh thấm vào từ nhỏ.
Lớn lên, đi làm chỗ nào cũng thấy không hài lòng. Làm nhà hàng thấy
cái bếp tại sao không sạch, thấy ông chủ đối xử với nhân viên không
tốt. Tới chừng làm khoa học cảm thấy không đồng ý với cái mình đang
có. Bất cứ chuyện gì cũng thấy là có thể làm tốt hơn.
Doanh nhân cũng bắt đầu bằng cái muốn làm tốt hơn cho chính mình, và
cho cộng đồng xung quanh, tiền sẽ đi theo thôi. Còn muốn làm doanh
nhân để có nhiều tiền hơn thì chỉ gặp cá sấu hay cá mập.
Người Việt mình giống cá hồi vậy đó
Nhưng, ông có sợ tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế, khoa học sẽ
hủy hoại những giá trị cội nguồn của thiên nhiên, của văn hóa?
Tốc độ phát triển khoa học càng nhanh càng giúp cho trái đất tốt hơn,
nhưng phải nằm trong tay người tốt, bắt đầu từ trái tim, linh hồn tốt
đã.
Đốn gỗ đã đời ở đây rồi qua nước khác đốn, nuôi bò ô nhiễm quá người
dân chịu không nổi, thì thử hỏi làm giàu để làm gì? Làm doanh nhân là
muốn có nhiều tiền hay cũng muốn cả xung quanh tốt hơn?
Người ta có đủ cách để làm không tốt. Người nhiều tiền với người giàu
khác nhau. Người giàu biết họ giàu, có tài sản, tiền bạc, biết chia sẻ
tiền bạc tài sản. Việt Nam mình nhiều đại gia quá mà thiếu người giàu,
còn người trẻ lại nhiều người giàu hơn, dù họ ít tiền hơn đại gia.
Nhưng mình cũng mừng vì đã có những doanh nhân trẻ thực sự tốt, phát
triển doanh nghiệp dựa trên trí tuệ, bản lĩnh, không giống như thời
trước.
Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Có chứ. Trong gia đình không cô đơn, nhưng về xứ mình lại nhiều khi cô
đơn lắm, vì làm khác người ta quá.
Nhưng, dù sướng khổ thế nào ông vẫn ở lại quê hương?
Người Việt mình đẻ ra lớn lên vùng nào, đi đâu thì đi giống như cá hồi
vậy đó, cũng bơi ngược dòng để chết tại quê hương.
Tại sao Trà Vinh phì nhiêu thế, có biển đẹp thế lại bị coi là tỉnh
cùng, tỉnh nghèo?
Vấn đề là cái nhìn của mình thế nào thôi. Tôi muốn chứng minh điều ngược lại.
Theo Kim Yến (Bizlive)

Nld.com.vn
Tin theo chủ đề :
khu công nghiệp
,
môi trường xanh
,
Thung lũng Silicon
,
thiếu minh bạch
,
tiền lương cao
,
trái cây Việt Nam
,
thói quen xấu
,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
,
vốn nước ngoài
,
nguyễn thanh mỹ

Chia sẻ:
Ý kiến bạn đọc4 phản hồi

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

Tran Huutoan shared an album with you.

You are invited to view Vu Duy's photo album: K9(C22) HM 14-11-2015
K9(C22) HM 14-11-2015
Nov 15, 2015
by Vu Duy
If you are having problems viewing this email, copy and paste the following into your browser:
https://picasaweb.google.com/lh/sredir?uname=105892148570372714809&target=ALBUM&id=6217360174904604305&authkey=Gv1sRgCLX1wMacieH3zQE&feat=email
To share your photos or receive notification when your friends share photos, get your own free Picasa Web Albums account.

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015

Re: Những người Việt thành tỷ phú trên đất Mỹ

Những người Việt thành tỷ phú trên đất Mỹ
Câu chuyện về những người Việt Nam ở nước ngoài có lẽ là câu
chuyện chưa bao giờ kể hết. Có những góc khuất còn nhiều
vất vả nhưng cũng có những tấm gương vươn lên, thành công, ghi
dấu ấn khiến người người nể phục. Thậm chí họ còn nhận
được cả sự ngưỡng mộ và kính trọng từ bạn bè khắp nam
châu.
Cuộc sống phát triển, những khoảng cách như được kéo gần
lại, tài năng, bản lĩnh của con người cũng có dịp được phát
huy và tỏa sáng. Trên thế giới, có rất nhiều tỷ phú gốc
Việt đã chứng minh được thành công của họ, đặc biệt là ở
ngay chính những thiên đường kinh doanh của đất nước sở tại.
Bằng khả năng, sự nhạy bén trong kinh doanh, tư duy linh hoạt
những tỷ phú này đã khiến người dân Mỹ, giới kinh doanh ở
nơi được đánh giá là sôi động bậc nhất thế giới phải kiêng
dè.

Chính E.Chu - Người "đạo diễn" kế hoạch thu mua tập đoàn Dell

Cái tên Chính E.Chu là một cái tên vô cùng quen thuộc trong
giới đầu tư tài chính Mỹ

Hiện tại Chính E.Chu đang là giám đốc cấp cao của tập đoàn
đầu tư tài chính Blackstone (Mỹ). Chính E.Chu sở hữu trong tay
số tài sản lên tới 1,1 tỷ USD. Biệt tài mà mọi người nhớ
tới ông chính là khà năng "đạo diễn" hàng loạt vụ thương
thuyết cho Blackstone. Nhiều người nói đùa rằng "không có
thương vụ nào tuột khỏi tay Chính E.Chu".

Chính E. Chu (Chính Chu) sinh năm 1966 tại Việt Nam. Năm 1975, ông
cùng gia đình di cư sang Mỹ với vốn liếng chỉ vài trăm USD. Vừa đi
học, ông Chu vừa đi bán sách lẻ và giao đến tận nhà. Chu có bằng cử
nhân Tài chính tại Đại học Buffalo, một trường công tại New York (Mỹ).

Bằng khả năng của mình, Chính E.Chu đã lần lượt "thu mua" rất
nhiều tập đoàn, công ty... thu lại khoản lợi nhuận vô cùng
béo bở và trở thành một cái tên khiến phố Wall phải kiêng
dè.

Bài học thành công của Chính E.Chu chính là sự kiên trì theo
đuổi mục tiêu. Theo ông, chỉ cần bạn có mục tiêu và kiên trì
theo đuổi nó thì thành công sẽ không quay lưng lại với bạn.

Chính E.Chu được đánh giá cao ở khả năng phân tích và nhạy
bén về tài chính. Ông còn khiến phố Wall phải kiêng nể khi
trở thành "đạo diễn" cho kế hoạch thu mua lại Tập đoàn máy tính
Dell với giá khoảng 25 tỷ USD.


Chính E.Chu chồng của ca sĩ Hà Phương (thứ hai trong số 3 chị em Cẩm
Ly, Minh Tuyết, Hà Phương). Ngoài công việc kinh doanh, hai vợ chồng
Chính Chu còn tổ chức và điều hành một số hoạt động từ thiện và có 2
quỹ riêng: Vietnam Relief Effort và Ha Phuong Foundation. Cả hai vợ
chồng thường xuyên về Việt Nam tham gia các hoạt động từ
thiện ở nhiều vùng quê nghèo.

Trung Dung - Điển hình cho "Giấc mơ Mỹ"


Năm 1984, Trung Dung mới 17 tuổi và đến Mỹ với 2 USD trong tay.
Tuy nhiên, ông đã khiến cho cả nước Mỹ phải e dè và nể phục
vì khả năng vươn lên của mình. Với khả năng kinh doanh, sự
nhạy bén trong lĩnh vực công nghệ, ý chí không sợ khổ, sợ
khó đã giúp Trung Dung trở thành một điển hình trong cuốn sách
Giấc mơ Mỹ của tác giả Dan Rather.

Để sống và hoàn thành việc học Trung Dung đã phải lao động
một cách cật lực và làm bất kỳ việc nào có thể. Mặc dù
vậy, chàng thanh niên nghèo năm nào vẫn hoàn thành chương
trình tiến sĩ và bắt đầu làm việc khởi điểm tại công ty
Công ty phần mềm thương mại điện tử OpenMarket.

Một thời gian sau Trung Dung rời OpenMarket để thành lập công ty
OnDisplay vào năm 1996. Với thành công của mình, Trung Dung đã
khiến phố Wall kiêng dè về khả năng phát triển trong ngành
Internet Mỹ, vốn là thế mạnh của đất nước này.

Tính đến năm 2000, Trung Dung được cả nước Mỹ biến đến với
món "hời" lợi nhuận gần 1,8 tỉ USD từ thương vụ bán cổ phần
của OnDisplay.

Charlie Tôn Quý - Ông hoàng của nghề nail

Charlie Tôn Quý trong buổi khai trương cửa hàng (đứng thứ 2 từ
trái sang).

Người ta nói rằng việc làm dễ kiếm ra tiền nhất của người
Việt tại Mỹ chính là làm nail (nghề chăm sóc móng tay, móng
chân). Tuy nhiên, Charlie Tôn Quý lại không muốn nghề nghiệp này
chỉ là một trong những nghề tạm bợ, ông đã khiến nó trở
thành một "thiên đường hái ra tiền".

Với khởi điểm chỉ là một bài tiệm nail đầu tiên, Charlie Tôn
Quý đã bắt đầu kế hoạch vươn xa hơn nữa của mình bằng cách
đưa tiệm nail vào các siêu thị, cửa hàng...

Một thời gian sau, gần 1,200 cửa hàng nail của Charlie Tôn Quý
đã có mặt trên toàn nước Mỹ. Charlie Tôn Quý đã thành công khi
đưa thương hiệu Regal Nails trở nên nổi tiếng khắp toàn nước
Mỹ. Không những thế, ông cũng giúp rất nhiều lao động Việt
Nam có việc làm trong các cửa hàng nail của mình.

Hiện tại, với gần 1.200 cửa hàng nail, thu nhập bình quân của
Regal Nails là khoảng 500 triệu USD mỗi năm. Không dừng lại tại
đó, Regal Nails đang tham vọng đưa thương hiệu ra toàn thế giới.
Theo soha.vn



On 11/10/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính
>
>
> Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
> nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
> các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
> Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
> kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
> cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
> 2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
> nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
> gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
> khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
> đỉnh.
>
> Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
> kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.
>
> Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng
>
> Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
> Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
> Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
> 450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
> này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.
>
> Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
> từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
> tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
> tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
> được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
> khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
> hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.
>
> Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
> nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
> nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
> cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
> không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
> ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
> người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.
>
> Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
> cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
> gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
> và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
> những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.
>
> Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
> chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
> tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.
>
> Chào đón những tài năng nhập cư
>
> Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
> phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
> Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
> luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
> cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
> gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
> tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
> tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
> 60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
> nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
> nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
> nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
> biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
> sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.
>
> Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)
>
> Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
> lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
> vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
> sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
> nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
> vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
> Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
> chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
> của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
> Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
> được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
> của Chính phủ.
>
> Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
> hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
> qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
> lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
> trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
> trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.
>
> Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
> Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
> hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
> nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
> kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
> của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
> phủ), Yago nói.
>
> Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
> quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
> hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
> khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
> nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
> các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
> nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
> phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
> độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
> nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
> ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.
>
> Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
> cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
> tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
> thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
> những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
> tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
> nghệ.
>
> Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba
>
> Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
> toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
> Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
> Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
> lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
> Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
> người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
> Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
> giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
> tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
> tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
> khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
> địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
> đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
> vững vàng.
>
> Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
> trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
> có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
> targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
> trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
> phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
> ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
> rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
> chút.
>
> Bài học rút ra
>
> Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
> trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
> đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
> hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
> công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
> biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
> chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
> hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
> khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
> cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.
>
> Thanh Xuân lược dịch
>
> http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/
>
> ---
>
> 1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
> Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
> Cuộc chiến tháng 10.
>

Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel

Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Israel: Bốn nguyên nhân chính


Sức mạnh của nền kinh tế Israel không chỉ xuất phát từ những doanh
nghiệp công nghệ khởi nghiệp năng động và dám nghĩ dám làm, mà còn do
các chính sách quản lý vĩ mô khôn ngoan.
Chỉ sau một vài thập kỷ, Israel đã chuyển đổi thành công "từ một nền
kinh tế lạc hậu theo đường lối bán tập trung để trở thành một siêu
cường về công nghệ cao", như tạp chí The Economist từng nhận định năm
2010. Tính trung bình trên đầu người, Israel có nhiều công ty công
nghệ khởi nghiệp và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cao hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới. Và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu
khủng hoảng vừa qua, nền kinh tế Israel cũng chỉ bị tròng trành chút
đỉnh.

Có bốn nguyên nhân chính (ngoài những lý do khác) khiến Israel có nền
kinh tế phát triển thần kỳ như vậy.

Rút kinh nghiệm sau khủng hoảng

Ngày nay người ta coi Israel như một Thung lũng Silicon của khu vực
Trung Đông, nhưng nhìn lại năm 1984, Israel cũng chẳng khác gì so với
Zimbabwe bây giờ. Vào năm đó, tỷ lệ lạm phát của Israel trung bình là
450%, và chỉ ít tháng sau vọt lên tới 950%. Nền kinh tế của đất nước
này, nói ngắn gọn là đang tự ăn thịt chính nó.

Nguyên nhân căn bản nào từng gây ra nạn lạm phát phi mã ở Israel? Kể
từ cuộc chiến tranh Yom Kippur1 năm 1973, Israel bắt đầu tăng mạnh chi
tiêu công. Tới cuối thập kỷ 1970, chi tiêu của Chính phủ Israel chiếm
tới ba phần tư GDP quốc gia, gây ra mức thâm hụt ngân sách khổng lồ,
được bù đắp bởi tiền in ra từ Ngân hàng Trung ương Israel. Lạm phát
khiến lương người lao động ở Israel buộc phải tăng theo chi phí sinh
hoạt, càng làm nền kinh tế thêm khó khăn.

Lạm phát phi mã kéo theo nạn thất nghiệp, khiến các nhà quản lý đất
nước chỉ mê mải cuốn theo mục tiêu tạo công ăn việc làm, trong khi vấn
nạn trầm kha là thâm hụt ngân sách vẫn không được ngó ngàng tới một
cách đúng mức. Hậu quả là sức khỏe nền kinh tế tiếp tục đi xuống,
không chỉ phải đương đầu với nạn lạm phát mà còn lâm vào khủng hoảng
ngân hàng, khi các nhà đầu tư bắt đầu rút tiền ra khỏi đất nước, và
người ta lo ngại rằng Israel có thể sẽ không trả nổi nợ nước ngoài.

Trước tình hình trên, năm 1985, các nhà lãnh đạo Israel tổ chức một
cuộc họp kéo dài trong một ngày đưa ra được một kế hoạch tổng thể bao
gồm các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, phá giá đồng tiền triệt để,
và chia tách mối quan hệ giữa lương và giá. Ngoài ra, họ còn đưa ra
những quy định cho một ngân hàng trung ương có vai trò độc lập.

Đây có thể coi là sự khởi đầu cho một nền kinh tế Israel hiện đại,
chuyển đổi từ mô hình quản lý kinh tế lấy Nhà nước làm vai trò trung
tâm, sang mô hình kinh tế thị trường chính thống hiện đại.

Chào đón những tài năng nhập cư

Nền kinh tế Israel trở về xu thế phát triển lành mạnh sau khi Chính
phủ bắt đầu triển khai những chính sách kinh tế phù hợp. Tuy nhiên,
Israel còn được hưởng lợi đáng kể từ vận may trăm năm có một. Đó là
luồng di cư của những người Do Thái rời khỏi Liên Xô tan rã. Trong bối
cảnh chính sách nhập cư của Mỹ gây rào cản cho một phần lớn người Nga
gốc Do Thái, lựa chọn điểm đến hiển nhiên cho họ là Israel. Từ 1990
tới 1997, hơn 710 nghìn người từ Liên Xô cũ đến định cư ở Israel, làm
tăng lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động ở đất nước này thêm 15%.
60% những người nhập cư này có bằng cử nhân, trong khi bản thân đất
nước Israel khi đó chỉ có 30-40% dân chúng có bằng cử nhân. Làn sóng
nhập cư giúp kích thích tăng trưởng, xã hội có thêm nguồn lao động,
nền kinh tế có thêm khách hàng, và ngân sách có thêm nguồn thu. Đặc
biệt khi những người dân nhập cư này có chuyên môn về cơ khí, quản lý,
sư phạm, v.v, thì lực đẩy tăng trưởng càng tích cực hơn.

Chính phủ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm (trong ngắn hạn)

Ngày nay chúng ta thường gọi Israel là "quốc gia khởi nghiệp." Cái tên
lấy xuất xứ từ tên cuốn sách của hai tác giả Dan Senor – từng là cố
vấn cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney – và Saul Singer. Cuốn
sách cho thấy tính cách táo tợn, giàu tham vọng, và năng lực vượt qua
nghịch cảnh ở người dân Israel, chính là bí quyết thành công tại những
vườn ươm công nghệ của đất nước này. Cây viết Zach Goldfarb của tờ
Washington Post gọi đây là "luận đề chutzpah". Có lẽ quả thật phẩm
chất chutzpah (trong tiếng Do Thái có nghĩa là táo tợn) là một phần
của nguyên nhân làm nên thành công ở các doanh nghiệp khởi nghiệp
Israel. Nhưng để những doanh nghiệp khởi nghiệp của Israel tồn tại
được trong thời kỳ trứng nước thì không thể bỏ qua vai trò trợ giúp
của Chính phủ.

Mặc dù Israel sớm có những tiền đề tốt để phát triển công nghệ, chẳng
hạn như Chính phủ đã đầu tư gián tiếp cho công nghệ khá nhiều thông
qua nghiên cứu phục vụ quốc phòng, đồng thời các doanh nghiệp có thuận
lợi lớn là dân chúng được đào tạo, giáo dục một cách bài bản, nhưng
trong giai đoạn phát triển ban đầu, họ vẫn thiếu một chất xúc tác quan
trọng: các nhà đầu tư mạo hiểm.

Theo Glenn Yago, một nhà quản lý cao cấp tại Trung tâm Israel thuộc
Viện Milken, vào thời đó ở Israel hầu như không có vốn đầu tư mạo
hiểm. Thay vào đó, nền kinh tế hầu như bị chi phối bởi các doanh
nghiệp khổng lồ được nhà nước hậu thuẫn. "Về cơ bản, đó là một nền
kinh tế tư bản thân hữu" (là nền kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp phụ thuộc vào quan hệ với các quan chức và chính
phủ), Yago nói.

Nhưng thực tế này bắt đầu thay đổi từ chương trình Yozma năm 1993, một
quỹ đầu tư mạo hiểm có nguồn vốn lên tới 100 triệu USD do Nhà nước sở
hữu. Một phần tiền từ quỹ được đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, chương trình này còn lôi kéo các
nhà đầu tư mạo hiểm của nước ngoài lập ra các quỹ ở Israel, dựa trên
các chính sách ưu đãi của Chính phủ Israel như giảm thuế và cam kết
nguồn vốn đối ứng trong nước. Nhờ vậy, Israel đã tạo ra được tiền đề
phù hợp để tới năm 2000 thị trường đầu tư mạo hiểm phát triển một cách
độc lập đầy năng động, là bệ phóng cho hàng trăm doanh nghiệp khởi
nghiệp mỗi năm – sau khi thị trường đầu tư mạo hiểm hoạt động đi vào
ổn định, Chính phủ Israel cho tư hữu hóa Yozma từ năm 1998.

Tới năm 2005, Thủ tướng Benjamin Netanyahu hoàn tất những nỗ lực cuối
cùng để giải tỏa sự can thiệp của Nhà nước đối với ngành công nghiệp
tài chính Israel, khi đó đã đủ lông đủ cánh. Tuy nhiên, không ai có
thể phủ nhận công lao ban đầu của Nhà nước Israel trong việc thi hành
những chính sách thông minh để có thể từ con số không gây dựng và ươm
tạo thành công một hệ sinh thái phù hợp cho các doanh nghiệp công
nghệ.

Một vị thống đốc ngân hàng trung ương tài ba

Có nhiều lý do giúp Israel thoát hiểm qua cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu cùng những hậu quả tiếp sau đó. Đầu tiên phải kể đến việc
Israel đã thực hiện hợp lý một chính sách chi tiêu gần với đường lối
Keynesian cổ điển, đó là cắt giảm thâm hụt trong thời kỳ kinh tế đi
lên, rồi chuyển sang kích thích tăng trưởng khi nền kinh tế đi xuống.
Nhưng Israel còn có một vũ khí lợi hại khác: Stanley Fischer, một
người sinh ra ở Zambia, được đào tạo ở Mỹ, nay là Thống đốc Ngân hàng
Israel. Ông cũng từng là giáo sư ở MIT, kinh tế trưởng ở Ngân hàng Thế
giới, phó giám đốc điều hành ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và phó chủ tịch
tập đoàn Citigroup. Khi được bổ nhiệm vào vị trí điều hành chính sách
tiền tệ của đất nước, ông còn chưa có quốc tịch Israel. Nhưng kể từ
khi đảm nhiệm cương vị này năm 2005, ông đã giúp giá trị đồng tiền nội
địa tương đối ổn định so với đồng USD luôn biến động – qua đó hỗ trợ
đáng kể cho xuất khẩu – đồng thời chèo lái nền kinh tế tăng trưởng
vững vàng.

Một bài viết nổi tiếng của blogger Evan Soltas chỉ ra rằng sự tăng
trưởng này của Israel có lẽ là kết quả từ một chiến lược gây tranh cãi
có tên gọi "hướng theo chỉ tiêu GDP danh nghĩa" ("nominal GDP
targeting"), trong đó Ngân hàng Trung ương đặt ra một mục tiêu tăng
trưởng hằng năm và cố gắng đạt được mục tiêu đó, bằng cách tạo ra lạm
phát, hoặc kích thích tăng trưởng thực trong nền kinh tế. Có nghĩa là
ngăn ngừa các khoản nợ tư gây suy thoái kinh tế, bằng cách đảm bảo
rằng thu nhập tăng ổn định, cho dù tăng trưởng thực có bị chậm lại một
chút.

Bài học rút ra

Chính sách nhập cư cởi mở và sự năng động của các nhà đầu tư đóng vai
trò đáng kể nhất cho thành công của nền kinh tế Israel. Nhưng bên cạnh
đó không thể bỏ qua vai trò quan trọng của những người quản lý thể
hiện qua sự khôn ngoan trong chi tiêu công, những mối quan hệ hợp tác
công tư, và chính sách đảm bảo GDP danh nghĩa tăng trưởng ổn định. Đặc
biệt, Chính phủ Israel rất thức thời để biết khi nào cần nhường sân
chơi cho khu vực tư nhân, và khi nào cần can thiệp vào thị trường để
hỗ trợ cho các nhà đầu tư; hoặc khi nào cần đối phó với lạm phát, và
khi nào thì cho phép lạm phát một cách giới hạn và tạm thời để phục vụ
cho tăng trưởng. Đây là những bài học hữu ích cho các nhà quản lý.

Thanh Xuân lược dịch

http://www.theatlantic.com/business/archive/2012/08/its-not-just-the-culture-stupid-4-reasons-why-israels-economy-is-so-strong/260610/

---

1 Cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập do Ai Cập và
Syria đứng đầu, diễn ra từ ngày 6 tới 25/10 năm 1973, còn được gọi là
Cuộc chiến tháng 10.

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

Thế giới sẽ thuộc về những con người thiện tâm và hài hòa

TS Alan Phan: Thế giới sẽ thuộc về những con người thiện tâm và hài hòa
- TS Alan Phan nói rằng, lúc hết tiền cũng như có tiền, ông thấy
không có gì khác nhau lắm. Tài sản lớn nhất đối với ông là những cậu
con trai. "Khi làm ăn thua cuộc, tôi thường nói "mình ngu rồi, làm lại
thôi'". Nhưng dạy con thì khó hơn chục lần điều hành doanh nghiệp, và
đau đầu hơn nhiều vì không thể làm lại được".
Tài sản quý giá nhất của Alan Phan
AlanPhan:Dạy con khó hơn điều hành doanh nghiệp



TS Alan Phan trong một buổi trò chuyện về dạy con với phóng viên
VietNamNet. Ảnh: Hương Giang

Dạy con phụ thuộc… hên xui

Là người cha của hai thanh niên có thể gọi là rất thành công trên con
đường các con ông đã chọn - Người con lớn là công tố viên cho tiểu
bang Califorlia. Người con thứ hai làm khoa học gia cho Bộ Quốc phòng
Mỹ.

Ông từng chia sẻ rằng: "Các con tôi đã chọn các nghề mà chúng thích đó
là một điều mà tôi rất hãnh diện. Dù là các con tôi không làm doanh
nhân, không kiếm được nhiều tiền nhưng chúng rất hạnh phúc với sự lựa
chọn đó".Tuy nhiên, theo TS Alan Phan thì kinh nghiệm cá nhân của
ông cho thấy vấn đề dạy con và con mình trở thành người thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào sự may mắn, chứ không phải do
kỹ năng dạy con của mình, hay đào tạo theo phương pháp nào.

Mỗi đứa con có tính khí và sự phát triển nội tại khác
nhau. Các yếu tố môi trường, xã hội, văn hoá, gia đình và bạn bè
là những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến con cái.

"So sánh với nuôi con thì nuôi con khó gấp nhiều lần điều
hành doanh nghiệp. Với một doanh nghiệp thì mình có thể đứng
tách rời ra để nhìn và quyết định một cách khách quan và nếu
làm sai thì làm lại, nhưng dạy con thì không thể làm lại
được, không thể khách quan, vì thế, quyết định của mình khó
sáng suốt.

Quá trình nuôi con thì không phải lúc nào cũng suôn sẻ, êm
đềm như mình nghĩ mà có lúc đầy bão tố, dù tình trạng "vĩ mô"
rất ổn định".

Nhìn lại quá trình nuôi con, TS Alan Phan cho rằng "Có lẽ cái
mà tôi đã làm được là luôn bày tỏ tình yêu thương đối với
con mình. Mình yêu con dù bất cứ thế nào. Yêu ở đây là sự
trao gửi toàn diện, cho đi hoàn toàn. Khi con tôi nổi loạn và gây
cho tôi đau khổ, tôi vẫn yêu nó tha thiết. Tôi nghĩ, đó có thể
là một điều giúp nó khi lầm lạc, vì nó vẫn thấy bao quanh nó là một
tình yêu vô điều kiện từ cha mẹ.

Tình yêu của cha mẹ dành cho con cái càng nhiều thì đứa con
càng có nhiều cơ hội trở thành người tốt".

Một điều nữa là "Tôi hãnh diện với tất cả những gì con làm,
cho dù đó là điều tôi không thích" – ông khẳng định.

"Vào năm cuối trung học, các con hỏi ý kiến tôi về định
hướng nghề nghiệp. Tôi bảo các con cứ làm điều gì các con
thích. Hỏi kỹ trong lòng xem thích nhất điều gì. Nếu vài ba
năm nữa mà không thích nữa thì chuyển đổi cũng chẳng sao. Đừng
bao giờ hỏi cha mẹ thích con làm gì. Đây là đời sống của con".

"Con cái không thích nghe "giảng đạo" nhiều, mà thích nhìn và coi tấm
gương. Ngay từ nhỏ, hai đứa con cũng hay phê bình tôi, và nếu chúng có
lý, thì tôi cũng công nhận mọi sai lầm chứ không chối hay giấu. Tôi
không làm một đằng, nói một nẻo. Gia đình tôi có truyền thống rất dân
chủ, cởi mở, minh bạch và không trốn tránh trách nhiệm".

Alan Phan với người trẻ

Thế hệ trẻ nhận được sự quan tâm đặc biệt của vị doanh nhân này. Trong
thời gian ở Việt Nam, ông đã dành nhiều thời gian tới nói chuyện với
sinh viên các trường đại học, cũng như có những bài viết, trả lời
phỏng vấn chưa sẻ kinh nghiệm với giới trẻ.

"Đừng sợ thất bại"là lời khuyên mà ông gửi đến thế hệ trẻ trên con
đường tìm kiếm sự thành công.

"Mẫu số chung giữa thời tuổi trẻ của tôi và các bạn trẻ bây giờ đó là
có năng lực tràn trề, những suy nghĩ khá ngây ngô và nhiều lý tưởng
rất "hoang tưởng". Tuy nhiên, điểm chung lớn nhất mà ở mọi thời thế
đều có là cơ hội dành cho các bạn trẻ luôn hiện diện ở khắp mọi nơi,
vấn đề là họ có nhìn thấy và nắm bắt được nó hay không".

"Còn cái khác biệt là thời bây giờ, con người ít phải âu lo về những
chuyện no, đói hay chiến tranh. Thêm vào đó, cuộc cách mạng Internet
đã giúp người trẻ có được những kho tàng kiến thức 24/7 với tốc độ của
ánh sáng"– ông nhìn nhận.

TS Alan Phan cho rằng: "Mình có thể đổ lỗi cho ngày hôm qua nhưng
không thể đổ lỗi cho ngày hôm nay và tương lai. Có thể người trẻ chưa
được hưởng một nền giáo dục không tốt, họ sinh ra trong một môi trường
mà sự vô cảm càng ngày càng gia tăng và đôi khi thiếu cả sự dạy dỗ
đúng đắn của gia đình nhưng đó là những chuyện đã qua".

"Ngày hôm nay là một ngày mới. Những việc mình làm hôm nay và trong
tương lai hoàn toàn nằm trong tay mình, cái tư duy mới của mình phải
bắt đầu từ ngay bây giờ. Và bắt đầu như thế nào thì thực tình nền giáo
dục qua Internet ngày nay phong phú vô cùng. Vấn đề là lựa chọn những
gì mình thích và ứng dụng triệt để trên con đường mình đã chọn".

"Cốt lõi của vấn đề là khả năng chọn lựa và chấp nhận của các bạn.
Đừng đổ thừa cho giáo dục hay cho quá khứ".
Ông khẳng định "Cái đích đến của mỗi cá nhân đều từ bản chất riêng.
Bạn muốn đi đến đâu, làm cái gì thì bạn phải tự suy xét, định đoạt và
chấp nhận hậu quả. Sự thay đổi theo chiều hướng nào, việc muốn loại
thải hay thu nạp cái gì thì mỗi người phải tự biết. Không ai có thể
nói hay làm thay bạn được".


TS Alan Phan: "Dạy con khó hơn điều hành doanh nghiệp và đau đầu hơn
vì không thể làm lại được". Ảnh: Hương Giang

"Gọi tên" 3 điểm yếu của sinh viên Việt Nam

"Lười biếng" là tính xấu đầu tiên. Ông cho rằng, rất nhiều sinh viên
hiện nay biếng học, lười tư duy, muốn nhận được những thứ có sẵn chứ
ít khi tìm tòi.

Điểm yếu thứ hai được TS Alan Phan đề cập là "Ỷ lại và đổ thừa". Trông
chờ phụ huynh xin việc cho, hoặc khi gặp vấn đề trong công việc, cuộc
sống thì hay đổ thừa do số phận, do hoàn cảnh… là những biểu hiện của
điểm yếu này.

Một điểm yếu nữa của sinh viên hiện nay là "Hay bỏ cuộc, thiếu kiên
nhẫn". TS Alan Phan nhận định, đây là điểm yếu nhất trong 3 điểm được
chỉ ra. Với cách tư duy và thực hiện nửa vời, dễ nản lòng, những
người trẻ khó có thể đạt thành tựu nào đáng kể.

Từ những nhận định đó, TS. Alan Phan đưa ra những lời khuyên cho sinh
viên, mà theo ông "Thiết lập mục tiêu cụ thể" chính là việc đầu tiên
cần làm, đặc biệt là mục tiêu nghề nghiệp. Tiếp đó là việc "Lập kế
hoạch cụ thể và dài hạn". Và cuối cùng là "Tranh thủ những cơ hội tốt
để vượt lên".

Lý giải về việc bỏ ra nhiều thời gian, tiền bạc để đi diễn thuyết
trước các bạn trẻ, ông cho biết bởi vì "Tôi muốn giới trẻ có những góc
nhìn mới, thay đổi về tư duy mới. Trong quá khứ, không ít những bậc
tiền bối, ông cha họ đã kiếm được tài sản, khấm khá nhờ làm quan.
Nhưng trong một thị trường mới, kinh tế toàn cầu dựa trên kiến thức
thì con đường duy nhất để làm giàu cho đất nước và bản thân đó là tạo
ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu và người dân.

Cá nhân tôi tin tưởng thế hệ trẻ chắc chắn sẽ hiểu ra và vượt qua được
những người đi trước. Điều mà tôi muốn làm là thúc đẩy quá trình đó
nhanh hơn".

Giáo dục là kênh đầu tư số 1

Trong 8 kênh đầu tư theo lời khuyên của TS Alan Phan, kênh đầu tư vào
Giáo dục được ông xếp hàng đầu. Ông lý giải cho điều này như sau:"Một
tài sản mà chúng ta không thể mất được khi còn sống là tài sản trí
tuệ. Một đầu tư vào giáo dục sẽ đem lại cho bạn, gia đình bạn hay
những người thân yêu một tỉ lệ hoàn trái (ROI – return on investment)
khoảng 67% mỗi năm, liên tục trong vài chục năm khi bạn có tài sản
này. Không một kênh đầu tư có thể qua mặt con số ROI này trong bất cứ
tình trạng kinh tế nào.

Tại Việt Nam, vì kinh tế còn dựa vào nông nghiệp vả sản xuất gia công,
thay vì vào dịch vụ và công nghệ, nên ROI co thể ít hơn. Nhưng đây là
hướng đi bắt buộc của mọi nền kinh tế trong các thập kỷ tới. Ngay cả
những khóa học bổ túc kéo dài chỉ vài ba tuần cũng đem lại kết quả rất
khả quan cho tài chính cũng như công việc, nhờ có thêm kỹ năng quản lý
và chuyên nghiệp chuyên sâu hơn"– đây là lời khuyên của ông với giả
định "Nếu tôi là chủ một gia đình trung lưu, có dư chút tiền mặt trong
thời điểm hiện tại ở Việt Nam".

Còn đối với những bạn trẻ muốn khởi nghiệp kinh doanh, ông có lời
khuyên như sau: "Với những bạn kém may mắn đang đấu tranh vất vả đề
tìm sự nghiệp hay cơ hội kinh doanh, hãy tin vào con người thực và
định mệnh của mình. Phải kiên trì, biết đứng dậy và tiếp tục đi tới
khi vấp ngã. Không ai có thể từ chối mãi một con người có ý chí".

"Với những bạn nhiều may mắn, có đầy đủ vật chất và phương tiện, hãy
cố gắng hơn nữa với trí tuệ sáng tạo và tinh thần thanh cao. Nghĩ đến
những người kém may mắn, tập cách chia sẻ và hành xử mọi chuyện với
chuẩn mực đạo đức và văn minh. Những kẻ xấu có thể đang thắng, nhưng
cuối cùng, thế giới sẽ thuộc về những con người thiện tâm và hài hòa".

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Re: Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương tri!

Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được
- Từ Nhật Bản, GS Trần Văn Thọ, Đại học Waseda gửi đến VietNamNet
phân tích của ông về những thành quả cũng như tồn tại của nền kinh tế
VN sau 30 năm đổi mới, những thách thức mà Việt Nam phải đối diện,
đồng thời nêu ý tưởng cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.
VietNamNet giới thiệu bài viết này như một góp ý cho dự thảo văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12:
Đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy nghèo và trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp. Nhưng so với tiềm năng, kể cả những thời cơ
thuận lợi bị bỏ lỡ và so với kinh nghiệm của các nước Đông Á thì tốc
độ phát triển của Việt Nam thấp và kém hiệu suất.
Các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát triển nhanh
đưa nền kinh tế lên giai đoạn cao trong thời gian ngắn nhờ khát vọng
của lãnh đạo, của quan chức muốn đưa đất nước theo kịp các nước tiên
tiến, từ đó chủ nghĩa phát triển và tinh thần dân tộc được đề cao,
người tài được trọng dụng, tinh thần doanh nghiệp (DN) được phát huy.
DN tư nhân là động lực đưa nền kinh tế phát triển.
Hiện nay Việt Nam trực diện ba thách thức lớn. Thứ nhất là nguy cơ
chưa giàu đã già. Cơ cấu dân số vàng sắp qua đi, giai đoạn lão hóa dân
số sẽ đến gần kề mà thu nhập đầu người còn rất thấp. Thứ hai là nguy
cơ có sự phân hóa nền kinh tế thành hai khu vực, FDI và tư bản trong
nước. Thứ ba là nguy cơ mắc vào bẫy thu nhập trung bình thấp (bẫy thu
nhập trung bình đến sớm khi thu nhập đầu người còn thấp).
Kết quả phân tích ở trên đã gợi nhiều ý khi bàn về phương châm, chiến
lược, chính sách cần thiết trong tương lai trung và dài hạn của Việt
Nam. Xuất phát quan trọng nhất, có tính cách quyết định là khát vọng,
khí khái của những người lãnh đạo trong giai đoạn sắp tới.
Đánh giá thành quả phát triển của Việt Nam từ sau Đổi mới
Nhật Bản: Quan chức năng lực, thanh liêm
Hai giai đoạn quan trọng đã làm thay đổi nước Nhật là thời kỳ Minh Trị
duy tân (1868-1911) và thời kỳ phát triển cao độ còn gọi là thời đại
phát triển thần kỳ (1955-1973). Hai thời kỳ có những đặc điểm chung là
tố chất yêu nước và tinh thần trách nhiệm cao độ của lãnh đạo chính
trị, và năng lực, đạo đức của quan chức nhà nước.
Cuối thập niên 1950, nhà chính trị Ikeda Hayato thai nghén một ý tưởng
về việc đưa nước Nhật vào thời đại phát triển mới, đáp ứng nguyện vọng
của đại đa số dân chúng. Trong lúc tìm kiếm ý tưởng, ông đọc được bài
viết của Giáo sư kinh tế Nakayama Ichiro về khả năng tăng gấp đôi tiền
lương thực chất tức mức sống của người dân trong vòng 10 năm. Ông lập
nhóm nghiên cứu qui tụ các trí thức, các nhà kinh tế tâm huyết và có
năng lực để bàn bạc, nghiên cứu việc triển khai ý tưởng đó. Chính
Ikeda trực tiếp tham dự nhiều buổi họp thâu đêm của nhóm này.
Cuối cùng kết luận của nhóm là hiện nay tiết kiệm trong dân đang tăng,
đất nước đang mở cửa hội nhập với thế giới nên công nghệ nước ngoài sẽ
được du nhập dễ dàng; đó là hai tiền đề để đầu tư tích lũy tư bản. Đầu
tư có hai hiệu quả là vừa tăng tổng cầu vừa tăng khả năng cung cấp
(sản xuất) của nền kinh tế. Do đó kinh tế Nhật hy vọng sẽ bước vào
thời đại bột phát mạnh mẽ.
Được nhóm chuyên viên, trí thức triển khai về mặt lý luận và các chính
sách cụ thể, Ikeda tự tin và đã quyết định lấy Chiến lược bội tăng thu
nhập quốc dân làm cam kết chính trị trong cuộc tranh cử vào vị trí chủ
tịch đảng. Ikeda thắng cử và trở thành thủ tướng vào tháng 7/1960.


Công nhân kiểm tra chất lượng xe tại nhà máy Toyota Miyata ở tỉnh
Fukuoka, Nhật Bản. Ảnh: Bloomberg
Cốt lõi của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân (từ 1960 đến 1970) là
toàn dụng lao động, làm cho dân chúng thấy cuộc sống được cải thiện rõ
rệt, và đưa Nhật lên hàng các nước tiến tiến.
Phương châm cơ bản là tạo điều kiện để DN tư nhân tích cực đầu tư.
Công việc của chính phủ chỉ là cố gắng tiết kiệm công quỹ để có thể
giảm thuế nhằm kích thích đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng, và bảo đảm
an sinh xã hội. Phát triển là công nghiệp hóa, là phát triển ngành
dịch vụ nên lao động phải chuyển dần từ nông nghiệp sang các khu vực
phi nông. Do đó Ikeda đã nhấn mạnh phải ra sức giáo dục bậc cao đẳng
và hướng nghiệp để quá trình chuyển dịch lao động không bị gián đoạn.
Ikeda đã thổi vào xã hội một không khí phấn chấn, tin tưởng vào tương
lai. DN tích cực đầu tư, mọi người hăng hái làm việc. Kết quả là kinh
tế đã phát triển nhanh, vượt xa kế hoạch rất nhiều. Bình quân kinh tế
phát triển trên 10%, thay vì 7% như kế hoạch, chiến lược bội tăng thu
nhập quốc dân đạt được mục tiêu chỉ trong 7 năm, thay vì 10 năm như kế
hoạch ban đầu.
Theo giá thực tế năm 2000, tổng thu nhập quốc dân trên đầu người của
Nhật vào năm 1960 là 7.700 USD, đến năm 1970 tăng lên 16.600 USD. Mức
chi tiêu của một gia đình giới lao động vào năm 1960 trung bình mỗi
tháng là 32.000 yen, đến năm 1970 đã tăng lên 83.000 yen. Lương tháng
của công nhân trong ngành công nghiệp đã tăng từ 23.000 yen năm 1960
lên 72.000 yen năm 1970.
Trừ đi độ trượt giá mỗi năm vài phần trăm, trên thực chất thu nhập của
giới lao động đã tăng gấp đôi hoặc hơn. Ngoài ra, số lao động có việc
làm tăng nhiều hơn so với kế hoạch và số giờ làm việc mỗi tháng của
giới lao động giảm từ 203 giờ còn 187 giờ. Thập niên 1960 cũng là giai
đoạn người Nhật chứng kiến nhà nhà có tủ lạnh, quạt máy, máy giặt,
TV...
Tầm nhìn chiến lược về dân tộc
Tại sao kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân thành công ngoài dự kiến?
Một là bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược về dân tộc, về đất nước của lãnh
đạo, từ đó có khả năng qui tụ người tài chung quanh mình trong việc
hoạch định chiến lược, chính sách cụ thể. Hai là đội ngũ quan chức có
năng lực và thanh liêm, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước. Do 2
yếu tố cơ bản này, ta thấy họ đã đưa ra nhiều chính sách rất thiết
thực và thực hiện các chính sách rất có hiệu quả. Đơn cử vài thí dụ:
Thứ nhất, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi DN, yểm trợ DN nhỏ và vừa
bằng chính sách tín dụng, thủ tục hành chính đơn giản, hầu như không
có tham nhũng nên đầu tư tăng rất nhanh.
Tỉ lệ đầu tư trên GDP tăng từ 20% năm 1955 lên 30% năm 1960 và 35% năm
1970. Trong tổng đầu tư có tới 75% là của DN tư nhân. Những công ty tư
nhân nổi tiếng sau này như Honda, Sony, Toyota, v.v. đều lớn mạnh
trong giai đoạn này. DN nhỏ và vừa vay vốn đầu tư dễ dàng, thậm chí
những DN có số lao động dưới 20 người vẫn dựa chủ yếu vào vốn vay ở
các ngân hàng và cơ quan tín dụng hiện đại.
Thứ hai, ngoại tệ được quản lý chặt chẽ và tiết kiệm tối đa, hạn chế
việc đi du lịch nước ngoài và kiểm soát gắt gao việc quan chức dùng
ngoại tệ đi tham quan nước ngoài.
Thay vào đó, ngoại tệ chủ yếu để nhập thiết bị, nguyên liệu và công
nghệ cần thiết cho đầu tư. DN hăng hái cách tân công nghệ, sản xuất
sản phẩm đã có với giá thành và phẩm chất tốt hơn hoặc sản xuất những
sản phẩm mới, cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới.
Do cách tân công nghệ và do việc quản lý hành chánh, quản trị doanh DN
có hiệu suất, nên kinh tế phát triển rất có hiệu suất. Tuy đầu tư
nhộn nhịp như vậy nhưng độ cống hiến của tư bản trong tăng trưởng chỉ
có độ 25%, trong khi cống hiến của công nghệ, của quản lý tức năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là 65%.
Ngoài ra còn nhiều chính sách khác về giáo dục, khoa học công nghệ, về
đẩy mạnh xuất khẩu, về tổ chức thị trường… Nói chung lãnh đạo và quan
chức khẩn trương triển khai thực hiện các chính sách để đạt mục tiêu
của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân; và DN đã hưởng ứng tạo nên
khí thế đầu tư mạnh mẽ.
Nói về tố chất của quan chức Nhật Bản, tôi muốn giới thiệu trí tuệ,
hành động và tác phong của các quan chức Bộ Công Thương (MITI) vào
giữa thập niên 1950 mà tôi gọi họ là những anh hùng trong thời đại
phát triển.
Lúc đó một chiếc xe hơi nhập khẩu từ Mỹ vào giá rất đắt, tương đương 5
năm tiền lương của một quan chức trung cấp. Các quan chức ở Bộ Công
Thương lúc đó mơ ước có ngày người dân bình thường cũng sẽ có xe hơi
và cho rằng phải phát triển ngành xe hơi mới làm cho Nhật giàu mạnh.
Có nhiều ý kiến khác nhau về điểm này, kể cả một số lãnh đạo trong
đảng cầm quyền sợ kế hoạch sản xuất xe hơi sẽ không thành công và có
thể gây va chạm trong quan hệ Nhật-Mỹ. Nhưng các quan chức Bộ Công
Thương đã tích cực vận động lãnh đạo chính phủ và DN để thực hiện cho
được kế hoạch này vì tin sự quan trọng của ngành xe hơi đối với Nhật
trong tương lai.
Nhưng ý chí là một chuyện còn khả năng có thực hiện được không và làm
sao để thực hiện có hiệu quả là một chuyện khác. Lợi thế so sánh của
Nhật lúc đó là các hàng công nghiệp dùng nhiều lao động giản đơn như
vải vóc, giày dép…
Đang phân vân về khả năng sản xuất của nước mình, các quan chức đọc
được bài viết của giáo sư Shinohara Miyohei (1919-2013) bàn về lợi thế
so sánh động (lợi thế so sánh trong tương lai) và các điều kiện để
biến lợi thế so sánh động thành hiện thực. Họ vui mừng và liên lạc
ngay với giáo sư Shinohara xin gặp để hỏi chi tiết hơn.
Trong hồi ký viết hồi tháng 6/2009, Shinohara kể như sau: "Hồi đó 4-5
quan chức Bộ Công Thương đến nhà tôi vào buổi tối. Chúng tôi trò
chuyện mãi đến khuya vẫn còn muốn tiếp tục, cuối cùng gần 5 giờ sáng
họ mới ra về".
Còn rất nhiều câu chuyện tương tự về sự cầu thị, nhiệt tình lo việc
nước của quan chức Nhật thời đó.
Sau đó, Bộ Công Thương tự tin là Nhật có thể sản xuất xe hơi được và
đã đặt ra các chính sách yểm trợ DN xúc tiến sản xuất. Những chiếc xe
đầu tiên ra đời còn xấu về hình dáng nên một số người Mỹ trong ngành
xe hơi có vẻ chế nhạo. Nhưng quan chức Bộ Công Thương kiên quyết với
phương châm "Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được". Như ta đã biết,
ngành xe hơi Nhật phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1960.
Có thể nói tinh thần dân tộc là động lực đưa đến hành động của quan
chức nhà nước và kết quả là nền công nghiệp Nhật đã phát triển mạnh
mẽ.
GS Trần Văn Thọ(Đại học Waseda, Nhật Bản)
Chọn người tài làm việc nước
Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó
vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành công trong giai đoạn
phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất
ngắn.
Bài 1: Mỹ làm được thì Nhật cũng làm được
Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước này bắt đầu từ khi
Park Chung-hee nắm chính quyền (năm 1961), thiết lập thể chế độc tài
nhưng với quyết tâm phát triển đất nước.
Năm 1988 Hàn Quốc tổ chức thành công Thế vận hội Seoul và năm 1996
được kết nạp vào khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế),
một tổ chức của các nước tiên tiến. Từ lúc bắt đầu kế hoạch phát triển
đến khi trở thành thành viên của tổ chức các nước tiên tiến, Hàn Quốc
chỉ mất có 35 năm!
Tại sao Hàn Quốc thành công trong quá trình phát triển liên tục,
chuyển từ giai đoạn đói nghèo sang giai đoạn thu nhập trung bình thấp,
rồi trung bình cao, và tiến thẳng lên nước có thu nhập cao trong thời
gian ngắn?
Những người giỏi nhất ở các đại học danh tiếng nhất
Thứ nhất, ngay từ đầu Hàn Quốc đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về
sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tiên tiến, nhất
là theo kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình).
Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính
trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc tài, quyết tâm phát triển
của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược, chính sách
do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người
tài được trọng dụng.
Như nhận xét của nhiều chuyên gia về Đông Á, ở Hàn Quốc, nhà nước có
truyền thống chọn được người tài ra làm việc nước từ những người giỏi
nhất ở các đại học danh tiếng nhất.
Đặc biệt, Park Chung-hee lập Hội đồng họach định kinh tế (Economic
Planning Board) quy tụ những chuyên gia học ở Mỹ về, được giao tòan
quyền họach định chiến lược. Khi chiến lược đã được hoạch định, Park
trực tiếp chỉ đạo việc động viên các nguồn lực (vốn, ngoại tệ,…) và
tạo các cơ chế để chiến lược thành công. Khi cần thiết ông tự mình,
một cách rất công tâm và vì đất nước, chọn ra những DN có tiềm năng và
tạo điều kiện thuận lợi để họ khởi động quá trình sản xuất những ngành
công nghiệp nằm trong chiến lược phát triển.


Thủ đô Seoul của Hàn Quốc
Thứ hai, Hàn Quốc xây dựng được một cơ chế rất hiệu suất, hiệu quả về
quan hệ giữa nhà nước và DN. Trong quá trình đuổi theo các nước tiên
tiến, mục tiêu cụ thể là tích cực đầu tư, tích lũy tư bản (nhưng tỉ lệ
tiết kiệm ban đầu quá thấp phải vay nợ trong thời gian dài), đồng thời
bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ và đẩy mạnh xuất khẩu để có
ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu, công nghệ và trả nợ. Như vậy vai trò
của nhà nước rất lớn. Trong tình hình đó, ở nhiều nước khác, DN cấu
kết với quan chức để được tiếp cận với vốn vay ưu đãi, với ngoại tệ
khan hiếm và với các nguồn hỗ trợ cho xuất khẩu. Nạn tham nhũng dễ
phát sinh từ đó.
Nhưng Hàn Quốc nhìn chung đã tránh được tệ nạn đó nhờ có cơ chế minh
bạch, nhất quán, công minh có tính cách kỷ luật. Cụ thể là DN đuợc
nhận ưu đãi phải có nghĩa vụ tăng năng lực cạnh tranh, chẳng hạn phải
xuất khẩu nhiều hơn truớc. Nếu không hoàn thành nghĩa vụ sẽ không được
hưởng ưu đãi trong giai đoạn sau. Nói chung, các DN phải cạnh tranh
nhau, đưa ra mục tiêu phấn đấu khả thi mới nhận được ưu đãi của nhà
nước.
Khi đặt xuất khẩu là mục tiêu của quốc gia thì người lãnh đạo cao nhất
phải thường xuyên quan tâm và chỉ đạo chính phủ theo dõi diễn tiến thị
trường để có những điều chỉnh kịp thời về chính sách. Cơ chế hợp tác,
liên kết giữa chính phủ và DN cũng được xúc tiến. Đặc biệt từ năm
1965, hàng tháng chính phủ tiến hành hội nghị thúc đẩy xuất khẩu. Ấn
tượng nhất là tổng thống đích thân làm chủ tịch và chủ trì hội nghị
này. Mục tiêu xuất khẩu đặt ra rất lớn nhưng hầu như năm nào cũng đạt
được là nhờ cơ chế như vậy.
Thứ ba, Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập.
Tỉ trọng dành cho giáo dục vào cuối thập niên 1950 chỉ có dưới 10%
ngân sách nhà nước, nhưng đã tăng liên tục lên 15-18% trong thập niên
1960, và 19-21% trong đầu thập niên 1980. Đây là một trong những nước
có tỉ lệ rất cao trong hai chỉ tiêu: tỉ lệ của sinh viên du học trên
tổng số sinh viên trong nước và tỉ lệ người du học trở về trên tổng số
sinh viên đi du học. Thành quả này nhờ có các cơ chế liên quan đến
việc thi tuyển và đãi ngộ người tài.
Trong nỗ lực học tập, một điểm gây ấn tượng nữa là Hàn Quốc không
ngừng tăng cường hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ (R&D).
Tỉ lệ của chi tiêu R&D trên GDP đã tăng liên tục từ 1% vào đầu thập
niên 1980 lên đến khoảng 2,5% vào năm 2000 và 3,4% năm 2007. Trong nỗ
lực này, trong giai đoạn từ thập niên 1980 trở về trước, nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, sau đó DN tư nhân đóng vai trò chính tuy ngân sách
của nhà nước vẫn tăng liên tục.
Trung Quốc: Cùng thể chế, vì sao thành quả phát triển hơn VN?
Trong khoảng 30 năm qua, nhất là từ thập niên 1990, kinh tế Trung Quốc
phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1980 đến 2008 bình quân mỗi năm tăng 10%,
sau đó giảm nhưng vẫn giữ mức 7%. Trung Quốc đã trở thành công xưởng
thế giới và từ năm 2010 là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Gần đây nhiều người bắt đầu đặt câu hỏi: Tại sao thành quả phát triển
của Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam, mặc dù cùng một thể chế chính trị,
cùng một mục tiêu cơ bản về phát triển xã hội. Năm 1991, Việt Nam đưa
ra mục tiêu xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn Trung
Quốc vào năm 1992 cũng phát biểu phương châm cơ bản là xây dựng kinh
tế thị trường XHCN hoặc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc.
Trung Quốc bắt đầu cải cách mở cửa trước Việt Nam 8 năm. Có thể nói
lãnh đạo của Trung Quốc đã dứt khoát theo chủ nghĩa phát triển. Cụ thể
là cho kinh tế tư nhân tự do phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho
nước ngoài đến đầu tư trực tiếp (FDI).
Trong thập niên 1980, phe bảo thủ còn mạnh nhưng phe cải cách đã theo
phương châm "Thực tiễn là thước đo chân lý" lấy thành quả cải cách
bước đầu thuyết phục được những người bảo thủ và tiếp tục cải cách.
Khi thấy khu vực phi quốc doanh phát triển mạnh, và thành hình một
giới lãnh đạo DN mới, thay vì kìm hãm họ để bảo vệ lý tưởng vì giai
cấp công nông, Trung Quốc đã đưa ra thuyết Ba đại diện (năm 2002) để
tu chỉnh lý tưởng, mục tiêu của đảng Cộng sản.
Thứ hai là vai trò của chính quyền địa phương. Tại Trung Quốc, chính
quyền địa phương cũng có tinh thần của "chủ nghĩa phát triển". Các địa
phương cạnh tranh nhau trong quá trình phát triển. Địa phương phát
triển là điều kiện để lãnh đạo được đề bạt lên các chức vụ ở trung
ương.
Thứ ba là năng lực triển khai chiến lược phát triển. Sau khi có chiến
lược, phương châm phát triển, khả năng bắt tay ngay vào việc triển
khai cụ thể được hay không dĩ nhiên ảnh hưởng đến thành quả phát
triển.
Về mặt này thái độ của Trung Quốc rất ấn tượng. Ngay từ khi quyết định
cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã nhận thức sức mạnh của công nghệ, của
tri thức và có chiến lược tận dụng nguồn lực của Nhật và Mỹ, hai nước
được họ xem là mạnh nhất thế giới lúc đó. Họ cũng chọn Quảng Đông và
Phúc Kiến để lập đặc khu kinh tế nhắm vào sức mạnh và tâm lý hoài
hương của Hoa kiều mà đa số xuất thân từ hai tỉnh này.
Thực tiễn cho thấy chiến lược này rất đúng đắn. Trong thập niên 1980,
trong khi hành lang pháp lý chưa được hoàn thiện, DN Âu Mỹ và Nhật Bản
còn e ngại, sợ rủi ro, chưa đầu tư bao nhiêu thì Hoa kiều đã tích cực
đổ vốn và đưa công nghệ vào 4 đặc khu kinh tế. Sang thập niên 1990,
làn sóng FDI từ Đài Loan, Nhật Bản và các nước Âu Mỹ bắt đầu tích cực
chảy đến Trung Quốc.
Thứ tư là chất lượng bộ máy nhà nước. Về phí tổn kinh doanh, tình
trạng tham nhũng, hiệu suất của bộ máy hành chính, và các chỉ tiêu
khác liên quan chất lượng thể chế, Trung Quốc đã cải thiện nhanh. Theo
Doing Business 2014, số loại thuế mà DN phải nộp tại Trung Quốc giảm
từ 35 loại năm 2005 xuống còn 7 loại vào năm 2012.
GS Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Nhật Bản)
Kỳ tới: Chủ nghĩa phát triển và mũi đột phá cho VN



On 9/8/15, Tran Huutoan <huutoan66@gmail.com> wrote:
> Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương tri!
> Ngày: 05 / 09 / 2015 Trong: Tư Duy Đại Dương | bình luận : 26
> Bi kịch của xã hội Trung Quốc: Kẻ giàu thiếu tầm nhìn! Tri thức thiếu lương
> tri!
> Theo NTDTV – 29 Aug 2015 – Tinh Vệ biên dịch
>
> Bi kịch của xã hội Trung Quốc có rất nhiều, nhưng sâu sắc nhất nằm ở
> tầng lớp tinh anh của xã hội, có thể khái quát bằng hai câu: Người
> giàu không có tầm nhìn! Tri thức không có lương tâm!
> (GNA: Bài không nói gì về Việt Nam)
> Người giàu không có tầm nhìn!
> Hơn 30 năm trở lại đây, với việc Trung Quốc thoát khỏi nghèo khó, một
> bộ phận người giàu vượt lên trước, trong nhóm người giàu lại có không
> ít người siêu giàu trở thành tâm điểm chú ý của thế giới! Ở đây có hai
> vấn đề:
> – Trong những người này có bao nhiều người giàu lên nhờ vào trí tuệ
> của mình thực sự cùng với sự cần cù lao động?
> – Những người siêu giàu có kéo theo sự thịnh vượng chung cho người dân
> trong nước chưa?
> Vấn đề này, tin rằng những ai có trí tuệ bình thường đều có thể tự trả lời
> được.
> Theo truyền hình Hồng Kông: 1% người giàu ở Trung Quốc đại lục sở hữu
> 41% tổng của cải toàn dân trong nước, trong khi đó ở đất nước giàu
> nhất thế giới như Mỹ thì tỷ lệ chỉ là 4%. Có thể thấy chênh lệch giàu
> nghèo ở Trung Quốc so với Mỹ là khác biệt rất xa.
> Trong tình trạng này, người siêu giàu ở Trung Quốc dùng tài sản làm gì?
> Trả lời câu hỏi này có thể xem lại vài số liệu sau:
> Một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Quốc là tỉnh Sơn Tây, thế mà lại
> có người bỏ tiền ra mua một lúc 20 chiếc xe hummer. Trung Quốc là nước
> vừa mới vượt qua "chuẩn nghèo" 1000 USD (thu nhập bình quân người/năm
> – ND), tuy nhiên đây lại là nước chi dùng xa xỉ phẩm vào loại hàng đầu
> thế giới. Hơn 100 triệu tệ chi cho đồng hồ Rolex, 300 ngàn tệ chi cho
> Cartier trâm, 5 triệu tệ cho kim cương… Những hạng mục xa xỉ phẩm từ
> nước ngoài vào Trung Quốc ngày càng nhiều với tốc độ ngày càng nhanh
> hơn. Người giàu Trung Quốc thích "xa xỉ phẩm", họ chi mạnh tay và hào
> phóng đến người giàu nhất thế giới như Rockefeller cũng phải kiêng nể…
> Remy Martin của Pháp có thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc! Những
> sòng bạc ở Myanmar mang lại doanh thu lớn cho nước này, nhưng chủ yếu
> nằm ở biên giới Trung Quốc-Myanmar, những kẻ quăng tiền vào đó chủ yếu
> là người giàu và quan chức chính phủ Trung Quốc. Dịch vụ khiêu dâm ở
> Thái Lan là trụ cột của ngành công nghiệp du lịch nước này, tại các tụ
> điểm khiêu dâm người giàu Trung Quốc thuộc loại khách hào phóng nhất.
> Những kẻ lắm tiền này có ý thức thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho
> người dân trong nước không?
> Phần tử tri thức thiếu lương tri!
> Phần tử tri thức là lớp người tiên tiến dẫn dắt xã hội ở bất kỳ quốc
> gia nào. Nhưng phần tử tri thức Trung Quốc xuất phát từ một nền giáo
> dục có vấn đề nên không thể phát huy được tác dụng này. Những vấn đề
> liên quan đến phần tử tri thức có rất nhiều, nhưng "thiếu lương tri"
> là vấn đề chủ yếu.
> "Lương tri" là gì? Đó là ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội và bảo
> vệ đạo đức; là dũng khí sống vì chân lý; là kiên quyết không vì những
> cái lợi trước mắt mà bị thế lực đen tối mua chuộc.
> Một người dân bình thường có thể "lương tri" còn yếu; nhưng phần tử
> tri thức tuyệt đối không thể thiếu "lương tri"! Một dân tộc mà phần tử
> tri thức thiếu lương tri thì dân tộc đó không có hy vọng gì!
> Ví dụ tiêu biểu về phần tử tri thức có lương tri ở Trung Quốc cận đại
> có thể kể là Đàm Tự Đồng và Thu Cẩn. Sau biến pháp Mậu Tuất thất bại
> (1898), Đàm Tự Đồng thành tội phạm truy nã của triều đình, lính triều
> đình đến nơi ở bắt ông. Khi đó Đàm Tự Đồng có đủ thời gian để chạy
> thoát, giống như bạn của ông là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lưu
> vong ở Pháp. Thế nhưng Đàm Tự Đồng quyết không bỏ chạy, ông đã nói với
> người bạn khi đến báo tin: "Những nhà cách mạng phương Tây không tiếc
> sinh mạng, nhưng ở Trung Quốc chuyện này thật hiếm hoi, xin lấy Tự
> Đồng làm khởi đầu!"
> Ngày nay, phần tử tri thức nhiều hơn thời Đàm Tự Đồng và Thu Cẩn cả
> trăm lần, nhưng mấy người có ý thức trách nhiệm vì dân và dũng khí đạo
> đức như vậy? Bao nhiêu người có "lương tri" thật sự?
> Thực ra Trung Quốc ngày nay cũng có những phần tử tri thức biết giữ
> "lương tri", nhưng số người này đặt trong tập đoàn khổng lồ chỉ có thể
> là con số "vô cùng nhỏ nhoi".
> Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học "luồn cúi quyền lực" hoặc
> "tham lợi bán điểm"?
> Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô
> vẽ hỗ trợ bọn tham quan?
> Có bao nhiêu "nhà văn" viết tiểu sử cho lũ sâu mọt quốc gia?
> Có bao nhiêu "nhân sĩ nổi tiếng" vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt
> bỏ nguyên tắc?
> Có bao nhiêu kẻ biên soạn cái gọi là "Sổ tay danh nhân", "Sổ tay nghệ
> thuật gia"?
> Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề "môi giới dược phẩm"?
> Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách đào tiền trong túi học trò?
> Có bao nhiêu "nhà kinh tế học" vì "tiền thưởng" của bọn tài phiệt mà
> đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường?
> Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh
> nhân?
> Ở Trung Quốc, thiếu "lương tri" có lẽ không chỉ là nhóm phần tử "tri
> thức"; nhưng phần tử tri thức có "cảnh giới" cao hơn những người bình
> thường, nên có nghĩa vụ giữ "lương tri" của mình nhiều hơn so với
> những người bình thường.
> Nếu phần tử tri thức chỉ biết tranh giành lợi ích cá nhân, cái giá cho
> mỗi lợi ích cá nhân được thỏa mãn sẽ là sự hy sinh nguyên tắc "gìn giữ
> công chính", vì nó có được bằng sự mua chuộc, bằng sự hy sinh nguyên
> tắc chuẩn mực. Một phần tử tri thức bị mua chuộc thì không thể nào còn
> tồn tại "lương tri".
> Khi phần tử tri thức mất lương tri thì sẽ mất đi sự tôn trọng của toàn
> xã hội, cái giá phải trả là rất lớn! Những bài học bi kịch kiểu này có
> vô số trong lịch sử Trung Quốc.
> Các bài viết liên quan:
> 1. Ấn tượng trong tuần: Thiếu tâm, thiếu tầm, thiếu…quyền?
> 2. Một góc nhìn về an toàn thực phẩm
> 3. Lợi nhuận- Điều không thể thiếu của sự thịnh vượng (bản dịch)
> 4. Những Bài Học Làm Giàu
> 5. Năng Lượng Mặt Trời (Bài 2)
>